Thùng thùng trống đánh ngũ
liên

Trống Ấn Độ
 |
Trống
Phi Châu |
Trống
là một nhạc khí dùng chia thời gian thành những
quãng đều nhau hay không đều để tạo ra nhịp điệu,
tiết tấu. Trên thế giới người ta chia trống thành
hai loại: một mặt da và hai mặt da. Bộ phận quan
trọng nhất là thùng trống có nhiều hình thức khác
nhau (ống dài, tròn dẹp, lưng ong, thùng rượu ) với
cách đánh khác nhau (đánh bằng dùi hay vỗ bằng tay).
Kỹ thuật chế tạo trống: dán mặt da, đóng đinh, đóng
cút, căng dây,và phong cách biểu diễn ở phần lớn các
nước đều tương tợ nhau, chỉ khác nhiều về chức năng
của trống.
Đặc sắc nhất có thể nói là Ấn Độ
với những cách đánh từng loại trống rất tinh vi về
nghệ thuật.Trống ở châu Phi thể hiện như ngôn ngữ
trò chuyện, thậm chí đối thoại với nhau từ hai bên
bờ sông.
Riêng trống của Việt Nam có một
số điểm đặc biệt hơn ở các nước khác, với sự đa dạng
về hình thức, độc đáo về màu âm và phong phú về chức
năng mà trên thế giới ít nơi nào sánh bằng.
Hình thức đa
dạng
Một trong những loại trống độc
đáo của chúng ta là cái bồng, một nhạc cụ có vị trí
rất đặc biệt trong Đại nhạc của Nhạc cung đình và
Nhạc lễ ở miền Nam
Bồng là loại trống một mặt, thân
trống bằng gỗ hay đất nung hình dáng như cái bình,
phía dưới bịt kín, phía trên miệng xoè có bịt miếng
da trăn. Chung quanh vành da trăn xoi hơn 20 lỗ để
lòn dây mây qua căng thẳng mặt trống và thắt chặt ở
bên dưới. Một sợi dây mây khác cột miết các sợi dây
chằng, khi siết mạnh mặt trống được căng ra và tiếng
bồng cao hơn, khi buông thả ra thì tiếng trống trầm.
Người sử dụng hoặc ngồi trên ghế kẹp bồng giữa hai
đùi, hoặc ngồi xếp bằng để chiếc bồng thắt đáy lưng
ong giữa hai chân, hai tay vỗ bồng
Trống hai mặt thì Việt Nam có
rất nhiều, thông thường chia ra hai loại tiểu cổ
(trống nhỏ) và đại cổ (trống lớn).
Tiểu cổ tuy gọi là trống nhỏ
nhưng bao gồm nhiều loại từ nhỏ cho đến vừa và hơi
lớn.
Trống chầu trong Ca trù thuộc
loại tiểu cổ, không có kích thước cố định mà chiều
cao và đường kính khoảng chừng 20 phân, sử dụng một
roi chầu dài để đánh theo phong cách rất riêng, roi
trống song song với mặt trống và một tay vịn một tay
đánh.
Trống đế trong Chèo cũng là tiểu
cổ có hai mặt với đường kính từ 17 đến 20 phân, cao
từ 22 đến 24 phân, sử dụng hai dùi và đánh cả trên
bề mặt, ở mé trống và cả tang trống.
Nhỉnh hơn một chút có loại dùng
trong Rỗi bóng là cái trống dẹp với phong cách đánh
đặc thù được bà bóng sử dụng vừa đánh trống vừa hát
trong các buổi lên đồng.
Lớn hơn nữa có trống chiến trong
Hát bội (Hát tuồng), một tiểu cổ hình ống hai da,
cao 45 phân, mặt trống có đường kính khoảng 50 phân
và đánh bằng hai dùi.
Một loại trống đặc biệt không
phải tiểu cổ cũng chẳng phải đại cổ là trống võ có
mặt trong dàn đại nhạc của Nhạc cung đình hay Nhạc
lễ ở miền Nam, đường kính từ 40 đến 45 phân, cao
chưa đến 20 phân, đặt trên giá ba chân bằng gỗ.
Thông thường trống trong dàn Đại
nhạc hơi cao hơn trống của Nhạc lễ, nhưng đường kính
bề mặt lại nhỏ hơn đôi chút. Dàn Nhạc lễ trong đám
tang có một cặp trống nhạc gọi là trống văn và trống
võ (hay trống đực và trống cái) bề cao 15 phân,
đường kính 40 phân làm bằng da trâu, chính giữa mặt
trống có vẽ vòng tròn âm dương, đặt trên một cái giá
ba chân. Người đánh trống là nhạc công chánh nên lúc
nào cũng phải mặc áo dài đen, quần trắng và sử dụng
một cặp dùi đầu nhọn.
Đại cổ là trống chầu, có trong
Hát chèo, Hát bội, Nhạc cung đình và trong tất cả
các đền thờ miếu mạo ở miền Nam.
Ngoài ra có một loại trống khác
mà ít người để ý là trống cơm, nguồn gốc từ miền Nam
Ấn Độ gọi là trống Mridangam, trên mặt trống có một
ít cơm nghiền hoặc miếng bột mì trộn nhuyễn như
miếng bánh,dán lên làm cho tiếng trống êm ái hơn.
Trống cơm là nhạc cụ quan trọng trong Nhạc lễ và Hát
bội. Còn trong Hát chèo thì trống cơm chỉ đóng vai
trò đánh luồn vào đàn chớ không có bài bản riêng.
Trong âm nhạc truyền thống,
trống hiện diện nhiều nhứt là trong dàn đại nhạc của
Nhạc cung đình với đủ các loại từ đại cổ, tiểu cổ,
cặp trống võ (trống lễ), đến bồng và trống cơm.
Độc đáo màu
âm
Trống trong truyền thống Việt
Nam có màu âm hết sức đa dạng, sự phối hợp cũng độc
đáo với nhiều chức năng phong phú mà ít ai ngờ.
Trong Hát bội cũng như trong
Nhạc lễ, màu âm của tiếng trống được sử dụng hết sức
tinh vi, màu âm khác nhau thì mang ý nghĩa khác
nhau.
Tong, thờn, tùng, thùng khi đánh
vào giữa mặt da dùng để đánh nhịp hay để chấm câu.
Tang, táng, tỏng khi đánh vào vành da, đây là cách
đánh sáng. Khi đánh âm táng hay tong liên hồi diễn
tả sự sôi động của tâm hồn hoặc tâm trọng giận dữ,
hốt hoảng. Tịch là một dùi chặn, một dùi đánh vào
giữa mặt da, cũng gọi là cách đánh tối, khi nhân vật
biểu lộ sự ngạc nhiên, suy nghĩ hay do dự, có khi
nghẹn ngào, uất ức. Cắc là đánh vào tang trống hay
vào dăm gỗ khiến màu sắc của tiếng trống tươi tắn
hơn, linh động hơn. Rù là hai dùi đánh mau và không
mạnh lắm vào mặt trống. Khi đánh mau trong một chỗ
gọi là tà roong, tà rờn, tà rùng, tà ráng …
Về kỹ thuật biểu diễn, trong các
tiếng trống luôn luôn có tiếng âm và dương trộn lẫn
với nhau chớ không đơn thuần một tiếng trống âm hay
dương mà thôi. Phong cách này phù hợp với triết lý
của dân gian quan niệm rằng vũ trụ có được do sự
phối hợp của hai yếu tố âm và dương, tuy khác nhau
nhưng không đối chọi mà bổ sung cho nhau.
Trong Hát bội và Nhạc lễ có các
bài bản dành riêng cho trống với đầy đủ công thức
như câu thủ (mở đầu), câu vĩ (kết thúc). Ngoài những
nhịp điệu cơ bản, trống Việt Nam còn có những biến
tấu, một khi nắm vững công thức đánh mở đầu và kết
thúc thì đoạn giữa có thể ứng tác ứng tấu được. Vì
vậy khi học đánh trống thì phải học chân phương,
nhưng khi biểu diễn phải có thêm hoa thêm lá, thêm
nhưn thêm nhuỵ cho đẹp hơn. Trong yếu tố về mỹ học
cho phép người biểu diễn không cần giữ những công
thức cố định mà có thể thay đổi cho sinh động.
Cách đánh này chỉ có trong
truyền thống Ấn Độ và Việt Nam, còn các nước khác
hầu hết đều phải cố định.
Chức năng đa
dạng
Ở các nước, đa phần tiếng trống
chỉ để phụ hoạ theo nét nhạc, làm thành tiết tấu của
bản nhạc mà không có nhiều chức năng như trong
truyền thống Việt Nam.
Trước đây, trống đại cổ không
chỉ dùng trong các dịp lễ tế thần mà còn sử dụng
trong đời sống hàng ngày như trống điểm canh để báo
hiệu từng canh giờ trong đêm; hay dùng ở trường học
những lúc khai trường, nhập học và tan lớp.
Ngoài ra, chiều về hễ nghe tiếng
trống thùng thùng diễu qua các con đường làng thì
mọi người đều nôn nao:
Ăn no rồi lại nằm khoèo
Nghe tiếng trống chèo vác bụng
đi xem
Mặt khác, mỗi khi có tiếng trống
vang lên hồi một chính là để báo động các tai biến
xảy ra trong làng xóm (cháy nhà, tai nạn, chết người
…).
Thời chinh chiến, "thùng thùng
trống đánh ngũ liên" ban hiệu lệnh xuất quân thúc
giục người chiến sĩ lên đường ra trận giữ yên bờ
cõi.
Điểm đặc sắc nhứt là vai trò
quan trọng của trống trong các bộ môn nghệ thuật
truyền thống như Ca trù, Hát bội, Chèo.
Chèo
Trống đóng vai trò không thể
thiếu trong bộ môn nghệ thuật chèo, gồm một trống
đại cổ gọi là trống cái (trống chầu) và cái trống
đế.
Trống chèo có những chức năng
khác như khi khai tràng (mở đầu) có tiếng trống
chầu, trống đế (chèo). Đánh những bài đầu thì tiếng
trống nổi lên hợp với tiếng mõ và tiếng la tạo ra
một không khí sôi động để cho mọi người chú ý để mở
màn.
Trống đế dùng hai dùi, khi đánh
mau vào hai bên tang trống là róc tang; đánh vào
giữa mặt trống là lên mặt; tay trái đè mặt trống,
tay phải gõ dùi lên mặt trống la bịt mặt; hai dùi
đánh mau trên mặt trống là đổ trống. Đánh theo nhịp
gọi là đánh khổ trống với nhiều cách đánh từ đổ 2
nhịp, 4 nhịp, 6 nhịp đến 8 nhịp. Không phải chỉ đánh
chân phương mà thường đánh hoa lá, thay đổi theo
tình tiết của vở diễn, không khí trầm lắng hay rộn
rịp của lớp trò và diễn tả được tâm trọng vui buồn
của nhân vật.
Do trống đế là nhạc khí chủ đạo
nên người đánh trống đế gần như là chỉ huy dàn nhạc.
Người đánh trống càng tinh tế tài hoa thì diễn viên
và dàn nhạc càng hứng thú và hiệu quả buổi diễn sẽ
càng cao.
Hát bội
 |
Trống chầu |
Trong Hát bội nhạc khí đặc biệt
nhứt là trống chầu, một chiếc đại cổ đặt bên cạnh
sân khấu kế bên dàn nhạc. Người đánh trống chầu
không thuộc thành phần nhạc công trong dàn nhạc mà
là người am hiểu nghệ thuật Hát bội để vừa đại diện
khán giả, vừa hướng dẫn người xem trong việc phê
phán, khen chê một cách chính xác.
Người đánh trống chầu giỏi cũng
phải am hiểu văn chương của tuồng để điểm trống cho
đúng vì tiếng trống chầu cũng tựa như dấu chấm, dấu
phết trong một câu văn. Đánh đúng cách, nói theo
giọng nhà nghề là không "đánh lọt vào trong họng"
của diễn viên, mà đôi khi còn "đỡ giọng" giúp cho
đào kép bằng cách dùng tiếng trống phụ với dàn nhạc
gây không khí sôi động cho sân khấu. Đánh một tiếng
là điểm câu, hai tiếng là khen vừa, ba tiếng là khen
nhiều.
Chính vì vậy ngày xưa trong làng
hễ đêm nào nghe tiếng trồng chầu nhiều mọi người bảo
nhau: "Chà, hôm nay tiếng trống chầu đánh nhiều,
chắc là đoàn này diễn hay lắm, mai phải đi xem mới
được".
Ca Trù
Trong Ca trù, ngoài đào nương
ca, kép đờn đáy phụ hoạ còn có người đánh trống
chầu, không chỉ thuần tuý đánh nhịp mà còn nhằm nhận
xét, khen chê. Người đánh trống chầu phải là người
thật am hiểu Ca trù và thông thạo lề lối đánh trống,
hễ đoạn nào ả đào (diễn viên) hát hay sẽ ngợi khen
bằng cách gõ một bên tang trống gọi là chát, hoặc
đánh giữa mặt trống gọi là tom (vì thế dân gian còn
gọi việc đi nghe hát Ca trù là thú tom chát). Có
nhiều khổ trống dùng để khen giọng hát hát, tiếng
đàn mang tên đầy thi vị như song châu, liên châu,
xuyên tâm, phi nhạn …
Tóm lại, trên thế giới không có
nơi nào có tiếng trống có nhiều cách đánh để bày tỏ
sự khen ngợi như vậy, với nhiều công thức khác nhau
như khen trước khi dứt câu khác với sau khi dứt câu,
cách khen tiếng đàn cũng khác với khen giọng hát ...
* * *
Có thể nói, xưa nay người Việt
Nam khi thưởng thức âm nhạc ít lưu tâm đến tiếng
trống, không cảm nhận được tầm quan trọng của trống
trong âm nhạc truyền thống. Rõ ràng nhìn vào bề sâu
mới thấy trống có vai trò chủ đạo, dẫn dắt trong sự
biểu diễn của một số bộ môn chớ không chỉ đơn thuần
đi theo, phụ họa.
Đáng tiếc là một số thanh niên
chúng ta ngày nay chỉ mê trống Jazz mà chưa hiểu hết
những nét đa dạng, phong phú, sinh động của tiếng
trống Việt Nam. Một khi đã biết rồi chắc chắn chúng
ta sẽ phải xem đó là một niềm hãnh diện, bởi tiếng
trống và cách sử dụng tiết tấu là một trong những ưu
thế của âm nhạc truyền thống VN.
|