|
|
|
Răng đen ai
nhớ cho mình
Để duyên mình thắm, để tình ra say |
Bài liên quan: |
Ca dao |
Bác sĩ Hocquard kể
chuyện vào cuối thế kỷ 19, một vị quan ta được mời
dự một dạ hội tại dinh Thống sứ Pháp ở Sài Gòn. Thấy
vị quan mãi ngắm quan khách khiêu vũ, một sĩ quan
Pháp lại thì thầm hỏi ý kiến ông ta về các phụ nữ
Pháp. Vị quan thành thật trả lời : "Các bà đẹp lắm,
có điều răng các bà giống như răng chó !"
(1).
Ý ông muốn nói răng các bà quá trắng. Lẽ tất nhiên,
viên sĩ quan Pháp rất ngạc nhiên nhưng ông ta không
hiểu đuợc một người Việt hồi đó không thể hình dung
một người đẹp mà không có hàm răng đen lánh đã được
hằng bao thế hệ văn, thi, họa sĩ ca tụng.
Nhớ hàng tre thẳng đọt măng |
Nhớ cô con gái hàm răng đen huyền |
Phong tục nhuộm răng,
xâm mình khởi đầu từ thuở thượng cổ xa xăm, truyền
thuyết đặt vào thời đại Hùng Vương. Nếu thói xăm
mình về sau được bỏ, tục nhuộm răng thành công tồn
tại qua nhiều thời buổi, ngay cả lúc quân đô hộ
Trung Quốc bắt dân ta bãi bỏ. Nhưng tục nhuộm răng
cũng như tục búi tóc không chống cự lại đuợc ảnh
hưởng Tây phương và chỉ hơn một nửa
thế kỷ là dần dần các cụ chịu cắt tóc, các bà cạo
răng trắng (3).
Nghe nói những cô giáo là những người đầu tiên không
muốn giữ răng đen nữa nhưng sáng đi sớm, chiều về
muộn, luôn phải tìm cách lẫn tránh cha mẹ còn cho
đàn bà con gái có răng trắng là không đứng đắn. May
mà các bác lính thợ tùng chinh sang Mẫu quốc còn giữ
răng đen. Nghe nói lính ta nhỏ con, thường bị quân
Maroc, Sénégal cao to hành hung, áp bức. Một sĩ quan
Pháp, để tránh lôi thôi, phiền nhiễu, bèn phao tin
đồn mà ông bịa đặt : những người có răng đen ăn thịt
người ! Từ đấy lính thợ ta
được yên thân…
Tôi còn nhớ hồi nhỏ,
mỗi khi mẹ tôi hay chị tôi nhuộm răng là cả nhà rộn
rịp vì các bà tự nhuộm lấy, không qua tay các thầy
nhuộm như ở các gia đình quan lại, ông hoàng bà
chúa, cung tần mỹ nữ,… Những người ngoại quốc, ngay
cả bây giờ, thường tin ăn trầu thì có răng đen. Họ
không dè muốn có hàm răng đen đẹp phải mất biết bao
công phu, chịu đựng, chuẩn bị kỹ càng, chế biến chất
thuốc, kiên nhẫn nhuộm răng rồi sau đó còn phải săn
sóc, bảo dưỡng cho lớp sơn luôn được láng bóng.
Nhuộm răng cũng như sơn mài, trước cần phải có một
mặt nền sạch sẽ. Thường trong luôn hai, ba ngày, các
bà phải đánh răng, xỉa răng với vỏ cau khô hay than
bột trộn với muối sống hầm chín, nhai chanh lát, rồi
súc miệng với rượu trắng pha nước chanh. Các bà
không biết nhưng từng trải qua kinh nghiệm, đã tìm
ra trong chanh citric acid là một acid nhẹ có khả
năng đánh gỉ, chùi sạch men răng. Tuy nhẹ, acid cũng
tác dụng ít nhiều lên môi, lưỡi, nếu răng,…gây nhức
đau tưởng như hai hàm răng lung lay, rụng được.
Trong giai đoạn chuẩn bị nầy cũng như các giai đoạn
sau, các bà không được nhai đồ ăn dai, cứng như thịt
mà phải nuốt trửng cho nên thường người ta cho ăn
bún trộn mỡ heo hay ăn cháo và trái chua, uống nước
nóng.
Kỹ thuật nhuộm răng nhiều đợt
Nhuộm răng có nhiều
phương pháp, tùy theo từng vùng. Ở miền Trung, nhất
là ở Huế, nơi có nhiều vua chúa, quan lại, ăn chơi
lịch sự, liều thuốc rất nhiều, lắm khi gia truyền
cần giữ bí mật (2).
Nói giản tiện, thường răng đuợc nhuộm làm hai đợt.
Đợt đầu xem như là lớp sơn lót, nhuộm với một hỗn
hợp cánh kiến, nước chanh vắt, rượu trắng, cho nấu
thành hồ, phết lên lá chuối hay lá dừa, lá cau, có
khi lên vải thô hay lụa, rồi cho áp vào răng, nhiều
lần trong một đêm, cho đến lúc răng nhuốm màu cánh
gián, giữa đỏ và nâu đậm như màu cánh con gián. Sáng
hôm sau phải cẩn thận lột lá hay vải ra, súc miệng
với nước mắm hảo hạng hay nước dưa chua để loại trừ
mọi căn bả. Bây giờ có thể qua đợt thứ nhì, nhuộm
với một hỗn hợp hắc phàn, thanh phàn, bầu bí, lựu
bì, quế chỉ, đại hồi, đinh hương được nấu nóng, trộn
với gạo nếp và rượu trắng rồi cũng cho áp lên răng
nhiều lần, nhiều ngày cho đến lúc răng trở thành đen
huyền. Lần nầy cũng lại phải súc miệng kỹ càng như
sau đợt đầu để thải bỏ chất nhuộm dư thừa. Và sau
nhiều ngày phải tránh nhai nhiều, nhai mạnh để khỏi
làm tróc lớp sơn đang còn non, mềm.
Răng nhuộm xong còn cần
phải chiếc để củng cố lớp sơn. Thường người
ta dùng một lớp nhựa chảy ra từ một sọ dừa đốt cháy
đặt trên một cái rựa sắt, đem bôi thành một lớp lên
trên răng. Ở Huế, hai liều thuốc xỉa có tiếng
để chiếc là cố xỉ tán và cố xỉ cao
(2). Cố xí tán gồm có thanh
phàn, hắc phàn, ngũ bội, cam thảo, bình lang, tế
tân, bạch chỉ, tam lăng, nhũ hương, nghiền thành bột
rồi dùng que tăm đập nát một đầu để tô lên răng.
Cố xí cao gồm có những chất vừa kể, thêm vào
sinh địa, tật lê, cánh kiến, một dược, đương qui nấu
trong nước sôi, cô lại thành cao trước khi dùng. Hắc
phàn, thanh phàn là những sulfat sắt và đồng có
nhiệm vụ ổn định chất sơn. Bầu bí hay ngũ bội, (hay
ngũ bội tử, là túi con sâu Schlechtendalia
sinensis Bell trên cây muối hay diêm phu mộc
Rhus semialata Murray), lựu bì (tức là vỏ cây
Punica granatum L. đem lại tannin có tính chất
làm xẩm màu lá hái như chè, thuốc lá, cà phê , chống
oxi nên bảo quản gỗ được lâu ngày và nhất là tác
dụng lên da, gây tê, cầm máu, giải độc, kháng sinh).
Còn những chất quế chi (cây Cinnamomum loureirii
Nees hay C. zeylanicum Nees, chữa cảm
mạo, tê mỏi), đinh hương (cây Syzygium aromaticum
(L.) Merr. et Perry., chữa cam răng, đau bụng),
cam thảo (thân rễ cây Glycyrrhiza uralensis
Fish. hay G. glabra L., chữa ho hen, loét dạ
dày), bình lang (trái cây cau Areca catechu
L., chữa giun sán, viêm ruột lỵ), tế tân (cây
Asarum sieboldii Miq., chữa đau răng, cảm lạnh),
bạch chỉ (rễ cây Angelica dahurica Benth. et
Hook., chữa lở mồm, hôi miệng), nhũ hương (nhựa cây
Pisticia lenticus L., chữa đau sưng, tiêu
nhọt), sinh địa (thân rễ cây Rehmannia glutinosa
(Gaertn.) Lobosh, chữa đau răng, chóng mặt, ho
khan, bệnh lao), tế tân (trái cây Tribulus
terrestris L., chữa đau mắt, kinh nguyệt không
đều), một dược (nhựa cây Commiphora momol
Engler, thuốc điều kinh, giảm đau, tiêu thủy), đương
qui (cây Angelica sinensis (Oliv.) Diels,
chữa thiếu máu, cơ thể suy nhược), đại hồi (trái cây
Illicium verum Hook., thuốc trung tiện, giúp
tiêu hóa), ngoài tính chất dược liệu, là những chất
thơm cống hiến hương vị cho liều thuốc nhuộm. Được
bảo vệ cẩn thận, răng nhuộm có thể tồn tại mươi, hai
mươi năm, màu đen huyền luôn lóng lánh giữa hai đôi
môi, không thì những lớp sơn tróc ra, những vết vàng
lạt hiện lên răng gọi là răng cải mả, phải
nhuộm lại. Trái lại, từ răng đen muốn trở lại trắng
cũng không phải dễ vì những phương pháp dùng acid
mạnh hay mài răng đều không thích hợp, có thể làm hư
răng.
Ngày nay người trẻ tuổi
khó lòng cảm xúc trước một nụ cười với hai hàm răng
đen. Nhưng nhuộm răng không phải chỉ là một vấn đề
mỹ quan mà còn có một lý do thực dụng : từ lâu người
ta đã nhận thấy răng nhuộm đen ít bị sâu răng. Vì
vậy có vài luận án nha y quan tâm đến đề tài nhuộm
răng. Ngoài công trình của nha sĩ Vũ Ngọc Huỳnh ở Hà
Nội (4), trong số những luận án tồn trữ ở
Trường Đại học Nha y Paris, phần lớn các tác giả cốt
yếu chú trọng đến phong cách, tập quán nhuộm răng
(7). Hai nha sĩ Phùng Thị Cúc (sau nầy
trở thành nhà điêu khắc có tiếng Điềm Phùng Thị) và
phu quân Bửu Điềm (thầy cũ Anh văn của tôi ở Trường
Trung học Khải Định) thì dựa lên công tác của nhóm
Nguyễn Dương Hồng ở Hà Nội để đề nghị dùng nhựa sơn
trong việc phòng ngừa bệnh sâu răng
(5).
Nhưng đi sâu vào khoa học nhiều nhất có lẽ là luận
án của nha sĩ Trần Văn Phú, dùng nhựa sơn để lấp bít
những khoảng trống tí hon trong răng
(6).
Thì ra, ông cha ta xử lý rất khoa học. Trước hết,
như đã thấy, muốn thuốc dính chặt vào men răng, cần
phải gây một mặt răng sần sùi. Vì men răng không
xốp, một dung dịch acid yếu như citric acid trong
chanh đủ để mài mà không đào những lỗ quá sâu làm hư
men răng. Bên phần nhựa sơn cũng cần một trạng thái
dễ trải với những hột sơn kích thước hiển vi có thể
lọt vào bất cứ khoảng trống ở nào. Với một đường
kính 17-20 angstrom, hột sơn nhỏ hơn một con trùng
như streptocoque đến 250-500 lần, dễ dàng trám hết
mọi lỗ hết còn chỗ cho vi trùng.
Bọ cái phát tiết sáp nhựa
Từ lâu người ra đã biết
cây sơn Rhus vernicifera sp. hay R.
succedana L., thuộc họ Xoài Anacardiaceae,
có nhựa nhưng không dùng được trong miệng vì
chất laccol rất độc. Nhựa trong thuốc nhuộm răng
được lấy ra từ một côn trùng cánh nửa hemiptere
tí hon (0,60-0,70mm) sống ký sinh từng tập đoàn
từ 80-100 con (ở Việt Nam trung bình 170 con) trên
thân, cành nhiều loại cây ở Đông Nam Á. Con sâu nầy
tùy tác giả được gọi Tachardia lacca R. Bld.,
Carteria lacca Sign. hay Coccus laccae
Kerr, trước khi mang tên thông dụng ngày nay
Laccifer lacca Kerr, thuộc họ Sâu cánh kiến
Lacciferidae Cockerell. Tachardia, Carteria
từ Tachard (1709), Carter (1861) là tên những
nhà khoa học đã khảo cứu và miêu tả nhựa sâu như
Kerr (1781), Roxbary (1796). Lacci nguồn gốc
từ tiếng Ấn Độ lakh hay Phạn tự laksha
nghĩa là trăm ngàn vì số lượng sâu trên cây nhiều vô
kể, từ đấy phát xuất những danh từ Âu Mỹ lak,
lac, laque.
Sâu chọn làm giống được
buộc vào cây, có thể cho vào sọt tre nhỏ hay túi
lưới rồi mắc lên cành, ở chỗ phân nhánh để sâu bò
sang nhiều cành. Sâu hút nhựa cây mà sống, trưởng
thành lớn lên thành bọ mới phân hóa đực, cái. Cả
hai loại (hai phần ba là cái) cùng nhau làm tổ trong
vỏ cành cây, tổ loại đực hình thoi, mỏng và nhỏ, tổ
loại cái hình tròn, lớn hơn. Bọ đực thoát xác, mọc
chân, mọc cánh, có thể di động được để đến với bọ
cái. Trong lúc đó bọ cái nằm yên trong tổ, chỉ lòi
bộ phận sinh dục ra ngoài để giao cấu. Làm xong
nhiệm vụ, bọ đực kiệt lức chết đi, hy sinh cho giống
nòi. Bọ cái có chửa, phồng lớn, cho phát tiết sắc tố
và và sáp, nhựa để nuôi nấng và bảo vệ bầy con sắp
đẻ. Mỗi bọ cái có thể mang đến một ngàn trứng (ở
Việt Nam, trung bình từ ba đến bốn trăm trứng) hình
bầu dục nhỏ, dài, chen lấn trong một túi dung dịch
nhuộm màu đỏ son rất đẹp. Ấu trùng từ trứng nở ra,
ăn sắc tố mà lớn lên làm dung dịch đặc lại, khô dần.
Oái ăm thay, sâu càng trưởng thành thì tổ mẹ càng
chật ra, bọ cái dần dần bị ngạt chết, cũng hy sinh
cho giống nòi như bọ đực, sâu con không chịu đựng
được nữa, luồng qua xác mẹ để thoát ra ngoài, bắt
đầu một chu kỳ khác. Mỗi năm có hai chu kỳ. Những bọ
đực mùa đông nhờ có cánh có thể bay qua thụ tinh
những bọ cái ở các cành xa. Theo nguyên tắc, mỗi năm
có thể lấy nhựa hai lần, song ở Việt Nam vì khí hậu
ít ôn hoà nên chỉ thực hiện được một lần. Ở Mộc
Châu, thả 5kg giống trên cây vải, nhựa thu hoạch
được là 200 kg. Còn sắc tố cấu tạo trong tổ cho sâu
con có thể thu hoạch cùng lúc với nhựa, nhiều khi
trước khi trứng nở nhưng như vậy thì mất đi một lứa
sâu mới (*) .
Bản chất của các cây
trú sâu có ảnh huởng rất lớn lên nhựa sơn. Chúng
phải mọc ở những vùng không quá nóng, không quá
lạnh, cần ẩm ướt nhưng đừng mưa quá nhiều. Ấn Độ là
nước sản xuất nhựa nhiều nhất trên thế giới, khoảng
50.000 tấn mỗi năm, xuất cảng qua Hoa Kỳ, Indonexia,
Canada, Đức, Nhật, Pháp, Nga ,… Bên nước ấy, nhựa
sơn hảo hạng được lấy từ những cây kusum
Schleichera trijuga Willd., dhak Butea
frondosa Roxb., arhar Cajanus indicus
Sprengl hay C. cajan (L.) Mills. Ở Việt Nam,
cây trú sâu mọc trong khoảng cao độ 400-700m. Ta
cũng có cây kusum gọi là dầu trường hay cọ phèn (lúc
trước dầu dùng để gội dầu, nhân hạnh thế đào lạc
trong bánh trái), cây dhak gọi là giêng giêng (vỏ
cây tán với gừng để đắp lên vết rắn hay bò cạp cắn),
cây arhar gọi là cây đậu thiều hay đậu săng (cây
thường được dùng để chữa đau xương mỏi chắc). Ngoài
ra sâu nhựa cũng ăn bám trên các cây chưng bầu
Combretum quadrangulare Kurz (trái và vỏ cây
được dùng làm thuốc trừ giun), dầu dầu
Schleichera oleosa (Lour.) Oken., bồ đề Ficus
religiosa L., sen cát Shorea cochinchinensis
Pierre, lá ngón Pterocarya tonkinensis
Dode, ba chế Desmodium cephalotes Wall., hay
một số cây ăn quả như vải Litchi sinensis
Radk., táo Ziziphus mauritiana Lamk., nhãn
Euphoria longan (Lour.) Steud.,… Nhựa sơn bên ta
tùy theo địa phương được gọi cánh kiến (hay cánh
kiến đỏ), cành kiến, kiền kiến,… nên có sự ngộ
nhận : có người cho là cánh con kiến, có người hiểu
là cành cây kiến, có người lại tưởng là thân con sâu
kiền kiến hay kiến vương,…
Thành phần cấu tạo
nhựa sơn

Ngày nay trên thị
trường người ta phân biệt ba loại nhựa sơn : nhựa
thô lấy từ thân, cành cây ra còn chứa tạp chất như
vỏ cây, lá cây, sâu non, xác bọ, đậm màu, gọi là
sticklac tức là nhựa thỏi. Dùng nước chiết xuất để
đào thải sắc tố, đem phơi khô, giã nát rồi rửa lọc
các tạp chất thì được nhựa màu đỏ vàng, còn chứa
chút ít sáp, gọi là seedlac tức là nhựa hột. Lại
tiếp tục rửa nước, làm ròng, lọc sạch, có khi tẩy
trắng với một dung dịch alcali hypochlorit
(11)
thì nhựa tinh khiết màu vàng lạt mang tên shellac
tức là nhựa vẩy. Làm lớp sơn lót trong giai đoạn
nhuộm thứ nhất, nhựa sơn đóng vai trò chủ chốt vì
trực tiếp kết dính men răng. Tuy được chú ý từ những
thế kỷ 18, 19, nhựa sơn chỉ bắt đầu được khảo cứu
tường tận từ đầu thế kỷ 20 rồi bật tung vào những
thập niên 70, 80. Chính vào những năm nầy mà nảy nở
những luận án nha y đề cập đến vấn đề dùng nhựa sơn
để nhuộm răng (4-7)
.
Khi khảo sát seedlac
của cây palas, nhóm Mhaskar-Sukh Dev
(18)
dùng ethanol pha nước khử sáp rồi lấy ether làm kết
tủa "nhựa cứng" tách nó ra khỏi phần "nhựa mềm".
Phần "nhựa cứng" còn gọi "nhựa ròng", chiếm 70% tổng
số nhựa cây, được đem phân tích qua các phương pháp
sắc ký lớp mỏng và giấy (18de). 12
acid đã được xác định (18d) : butolic
(14b,18b,20) , aleuritic
(12ab,13,18b), jalaric
(18ab),
shellolic (10,12a,24), epishellolic
(18ab,24a), laksholic (18b),
epilaksholic (18b), laccijalaric
(18c), laccishellolic (18c),
epilaccishellolic (18c), laccilaksholic
(18d) và epilaccilaksholic
(18d)
acid cùng 18 amin acid (22). Nếu những
tên shellolic, lacksholic, laccishellolic,
laccilaksholic acid dĩ nhiên từ shellac, lakh mà ra,
những tên butolic, jalaric acid lấy gốc từ những tên
cây trú sâu Butea monosperma Lamk., jalari
Shorea talura Roxb. Hai aleuric và butolic acid
là những phân tử dài, mở, những acid khác đều là
những dẫn xuất của một vòng terpen. Bên cạnh các
acid nầy, nhóm Gardner (12) còn chiết
xuất ra được những kerrolic acid (12d),
laccolic lacton (12cd), periolic acid
(12c).
 |
 |
laccaic acid A |
laccaic acid B |
 |
 |
laccaic acid C |
laccaic acid D |
Còn hai hóa chất quan
trọng trong nhựa sơn là hai sắc tố màu vàng
erythrolaccin (23) và màu đỏ laccaic acid
(8ab,15,23b). Cấu tạo cả hai có đồng sườn
anthraquinon mang ba hoặc bốn nhóm hydroxy ; laccaic
acid có thêm hai nhóm acid và một nhóm keton. Sắc tố
nầy được khai thác trong thực phẩm
(15),
mỹ nghệ (19). Vải bô nhuộm với sắc tố
nhựa sơn có khả năng khử trùng chống Escherichia
coli, Bacillus subtilis, Klebsiella pneumoniae,
Proteus vulgaris, Pseudomonas aeruginosa
(21). Gần đây cây đậu săng Cajanus
cajan (L.) Mills được khảo cứu tường tận hơn. Lá
cây chứa một số hóa chất như vitexin, salicylic
acid, henritriacontan, laccerol, longistylin,
pinostrobin, b-sitosterol, b-amyrin,…
(9). Mục đích các nhà khảo cứu là tìm một
cây trú sâu cống hiến đủ điều kiện để có nhựa sơn
tốt (17). Theo đông y, nhựa sơn có tác
dụng làm thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, cầm
máu, đậu chẩn, tuy vậy ít được dùng làm thuốc. Sách
xưa có nói đến chống thổ tả, trừ nôn mửa, tiêu chảy.
Shellac phát triển nhiều hơn trong mặt kỹ nghệ. Được
nói nhiều nhất là nguyên liệu để làm dĩa hát, bắt
đầu với những dĩa 78 vòng mà phần lớn chúng ta đều
biết cách đây một nửa thế kỷ, ngày nay khó chóng
chỏi với nhựa nhân tạo. Nhựa sơn là một chất chịu
acid, cách điện, chống tia cực tím, còn được dùng để
làm vec ni, mực in, thuốc xức tóc, khuôn răng giả,
bao chống ẩm, tô nón nỉ, đánh bóng sàn nhà, đồ gỗ,
tre, vải, da,… (*)
Ngày nay, nha y dùng
nhiều nhựa nhân tạo để lấp bít các lỗ hổng trong
răng. Những nha sĩ tôi gặp không có ai chịu hưóng về
nhựa sơn dù là một hóa chất thiên nhiên có nhiều
tính chất tốt về sức kết dính, độ thấm nước (rất cần
để xử lý trong miệng luôn có nước miếng), thêm vào
một kích thước khá nhỏ để dành chỗ các enzym, vi
khuẩn có thể làm hư răng. Ngành nha y ta có nên
chăng tiếp tục khảo cứu (4,5)
để dùng
trong công cuộc phòng ngừa bệnh sâu răng ? Nhựa sơn
tẩy trằng có thể là một thuốc nhuộm răng trắng, bảo
vệ men răng.
Trích Thông tin Khoa học và Công nghệ (4) (1997)
61-66 (có sữa chữa và bổ túc tài liệu)
Tham khảo
(*) Đỗ Tất Lợi,
Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986) 676
1- Dr Hocquard,
Une campagne au Tonkin, Hachette, Paris
(1882) ; Arlea, Paris in lại (1999) 122
2- A. Sallet, Les
laquages des dents et les tinctures dentaires chez
les Annamites, Bull. Amis Vieux Hué (4)
15 (1928) 223
3- Nguyễn Văn Ký,
La société vietnamienne face à la modernité,
l’Harmattan, Paris (1995) 231
Vài luận án nha y vế nhuộm răng
4- Vũ Ngọc Quỳnh,
Le laquage des dents en Indochine, Hà Nội 1937
5- Bửu Điềm, Phùng
Thị Cúc, Le laquage des dents auVietnam. Le
shellac en dentisterie préventive, Paris 1973
6- Trần Văn Phú,
La résine gomme laque. Orientation des recherches
vers son emploi dans l’obturation des micro-espaces
des dents, Paris 1975
7- Tô Huệ Mỹ (bà Lê
Văn Lý), Le laquage des dents. Contribution à
l’étude des mœurs et coutumes de l’ancien Viet Nam,
Paris 1973 ; Trân Thị Phùng Giao (bà Hồ Võ Tuân),
Réflexions sur le laquage des dents au Vietnam,
Toulouse 1978 ; Claude Bosq, Noircissement des
dents en Asie orientale, Paris 1982 ; Cyril
Bourgaux, Pratiques traditionnelles, culturelles
et rituelles intéressant les tissus durs et mous de
la cavité buccale en Asie et Océanie tropicales,
Bordeaux 1989
Nhựa sơn
8- Nhóm Burwood : a)
R. Burwood, G. Read, K. Schofiels, D.E. Wright,
J. Chem. Soc. (1965) 6067-73 ; b) id. (1967)
842-54
9- D. Chen, H. Li,
H. Lin, Zhongcaoyao (10) 16 (1985) 2-7
10- Nhóm
Cookson-Morisson : a) R.C. Cookson, N. Lewin, A.
Morisson, Tetrahedron 18 (1962)
547-58 ; b) R.C. Cookson, A. Melera, A. Morisson,
id. 1321-3
11- M.O. Faruq,
M.I.H. Khan, M.M. Alam, M.Z. Haque, M.A. Rahman,
Bangladesh J. Sci. Ind. Res.(3-4) 27
(1992) 134-40
12- Nhóm Gardner :
a) B.B. Schaeffer, Wm.H. Gardner, Ind. Eng. Chem.
30 (1938) 333-6 ; b) B.B. Schaeffer, H.
Weingerger, Wm.H. Gardner, id. 451 ; c) H.
Weingerger, Wm.H. Gardner, id. 454-8 ; d) Wm.H.
Gardner, Official Digest Federation Paint and
Varnish Production Clubs (1938) 473-8 ; e) P.M.
Kirk, P.E. Epoeri, Wm.H. Gardner, J. Amer. Chem.
Soc. 63 (1941) 1243-6
13- B.S. Gidvani,
J. Chem. Soc. (1944) 306
14- Nhóm Gunstone :
a) W. Caruthers, J.W. Cook, N.A. Glen, F.D.
Gunstone, J. Chem. Soc.(1961) 5251-4 ; b)
W.W. Chritie, F.D. Gunstone, H.G. Prentice, id.
(1963) 5768-71
15- K. Harada, R.
Higuchi, A. Ohwa, T. Ohtsubo, Japan 75 13,298
(1975) 3 tr.
16- M.G. Hussain,
M.H. Ali, M.M. Ali, F.K.N. Chowdhury, J.
Acad.Sci. (2) 11 (1987) 231-2
17- F. Liu, P. Yi,
S.Li, Linye Kexue (1) 24 (1988) 106-12
18- Nhóm
Mhaskar-Sukh Dev : a) M.S. Wadia, V.V. Mhaskar, Sukh
Dev, Tetr. Letters (8) (1963) 513 ; b) M.S.
Wadia, R.G. Khurana, V.V. Mhaskar, Sukh Dev,
Tetrahedron 25 (1969) 3841-54 ; c) A.N.
Singh, A.B. Upadhye, M.S. Wadia, V.V. Mhaskar, Sukh
Dev, id. 3855-67 ; d) R.G. Khurana, A.N. Singh, A.B.
Upadhye, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, id. 26
(1970) 4167-75 ; e) A.B. Upadhye, V.V. Mhaskar,
Sukh Dev, id. 4177-87
19- M. Matsumoto, Y.
Yehara, Japan Kokai 78 29,965 (1978) 2 tr.
20- Nhóm Sen Gupta :
a) S.C. Sen Gupta, P.K. Bose, J. Sci. Ind. Res.11B
(1952) 458-61 ; b) S.C. Sen Gupta, id. 18B
(1959) 210-2
21- R. Singh, A.
Jain, S. Panwar, D. Gupta, S.K. Deepti, Dyes and
Pigments (2) 66 (2005) 99-102
22- P.N. Srivastava,
R.K. Varshney, Entom.Exp. Appl.(2) 9
(1966) 209-12
23- Nhóm
Venkataraman : a) N.S. Bhide, A.V. Rama Rao, K.
Venkataraman, Tetr. Letters (1) (1965) 33-5 ;
b) E.D. Pandhare, A.V. Rama Rao, R. Srinivasan, K.
Venkataraman, Tetrahedron Suppl. (1) 8
(1966) 229-39
24- Nhóm Yates : a) P. Yates, J. Amer. Chem. Soc.
82 (1960) 5764-5 ; b) P. Yates, A.C.
Mackay, L.M. Pande, M. Amin, Chem. Ind.
(1964) 1991 ; c) P. Yates, G.F. Field,
Tetrahedron 26 (1970) 3135-58 ; d) P.
Yat’es, P.M. Burke, G.F. Field, id. 3159-7