Những bài cùng tác giả
Kỷ yếu Max Planck
If you think you
understand quantum mechanics, then you don't
understand quantum mechanics.
Richard P.
Feynman (Nobel Vật lý 1965)
1. E = hn
Vào những đêm
đông không gì thú vị bằng ngồi bên cạnh cái lò sưởi nghe tiếng
lửa reo tí tách, nhìn ngọn lửa lung linh cùng với vài người bạn
nhấm nháp ly rượu vang đỏ Penfolds bàn về triết lý cuộc đời, nói
chuyện thiên văn địa lý, đông tây kim cổ. Những đêm đông sẽ vô
cùng lạnh lẽo và vô vị nếu không có cái lò sưởi với những thỏi
than hồng thoang thoảng mùi khói của những khúc gỗ còn
xanh, quyện theo luồng không khí được hâm nóng bằng những tia
hồng ngoại. Đắm chìm trong một không gian ấm áp, ngà ngà men
rượu, thỉnh thoảng ánh mắt của ta bị lôi cuốn vào những ngọn lửa
đang hừng hực nhảy nhót, ở những khoảnh khắc ấy có khi nào
ta nghĩ đến ý nghĩa.... vật lý của cái lò sưởi khiêm tốn? Có khi
nào ta nghĩ rằng cái lò sưởi kia cũng có quan hệ "bà con xa" đến
cái CD player đặt ở một góc phòng và đang phát ra những âm thanh
tuyệt vời của dòng nhạc giao hưởng cổ điển Schubert, Mozart hay
những bài tình ca Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn đau xót cho mối
tình gầy mong manh hay tán tụng một tình yêu đang được
lên ngôi?! Khi đặt ra những câu hỏi này người đời sẽ cho rằng ta
đang bị "méo mó nghề nghiệp", thích nghĩ ngợi mông lung, nhưng
thực sự nếu bảo cái lò sưởi là mở đầu và cái CD player là hệ quả
của cơ học lượng tử, thiển nghĩ cũng không phải là quá lời.
Xuất phát từ giả thuyết lượng tử của Planck, hơn một thế kỷ trôi
qua thuyết lượng tử như một con sông đã vượt qua nhiều khúc
quanh, ghềnh thác, tập hợp những phát hiện vĩ đại theo dòng chảy
để ngày hôm nay trở thành một dòng sông to lớn đổ vào biển cả
khoa học, duy trì sự phồn vinh và hạnh phúc của nhân loại. Vào
năm 1900, qua sự quan sát về bức xạ sóng điện từ của vật đen
(black body), Planck đưa ra định luật bức xạ diễn tả sự liên hệ
giữa nhiệt độ và bước sóng của bức xạ. Nói một cách dễ hiểu, khi
làm nóng một thanh sắt, sắt biến thành màu đỏ, nóng hơn thành
màu vàng và nóng hơn nữa màu xanh trắng như ta thường thấy khi
sắt ở thể lỏng. Càng nóng bước sóng của bức xạ càng ngắn (từ màu
đỏ tiến đến màu xanh trong trường hợp thanh sắt). Dù không phải
là vật đen lý tưởng theo đúng định nghĩa trong vật lý, vật đen
trong thực tế có thể là điện trở của bóng đèn, thanh sắt, khúc
gỗ trong lò sưởi, mặt trời, phong nền vũ trụ (cosmic
background). Từ định luật bức xạ Planck, dựa theo quang phổ hay
màu sắc phát quang ta có thể dự đoán nhiệt độ của bề mặt mặt
trời trong khoảng 5.000 – 6.000 °C, than hồng trong lò sưởi trên
dưới 1.000 °C, điện trở bóng đèn trên 1.000 °C. Vi ba
(microwave) phát đi từ khoảng không gian vô tận cho ta biết
nhiệt độ của vũ trụ là -270 °C. Ngược lại, từ nhiệt độ của một
vật ta có thể biết bước sóng phát ra từ vật đó. Nhiệt độ con
người ở 37 °C cho biết cơ thể ta phát tia hồng ngoại.
Để chứng minh
định luật bức xạ của mình, Planck đã táo bạo đưa ra “giả thuyết
lượng tử” là năng lượng bức xạ của sóng điện từ được phát
ra không liên tục theo từng "gói năng lượng" E = hn
rời rạc, gọi là lượng tử, trong đó h là hằng số
Planck, n
là tần số của sóng điện từ. Nhưng Planck tin đó chỉ mới là
“cái mẹo toán” để suy ra công thức phân bố năng lượng bức xạ của
ông vừa tìm thấy sao cho hoàn toàn phù hợp với kết quả thí
nghiệm. Vài năm sau (1905), dựa vào ý tưởng bức xạ nhiệt theo
gói năng lượng của Planck, Einstein đi thêm một bước quan trọng
khi đưa ra quan niệm rằng ánh sáng được cấu tạo bởi các hạt gọi
là photon (hay quang tử, light quantum), mỗi hạt mang năng lượng
E = hn,
và tương tác với các điện tử của vật chất khi chạm vào. Bằng
cách đó ông nhanh chóng hoàn toàn giải thích được hiệu ứng quang
điện mà giới vật lý đương thời phải bó tay, và phát hiện này đã
đem lại cho ông giải Nobel năm 1921. Tức là, trái với quan niệm
sóng phổ biến lúc bấy giờ, Einstein cho rằng ánh sáng còn một sự
tồn tại thứ hai, đó là hạt. Ánh sáng vừa là sóng vừa là
hạt: khái niệm nhị nguyên sóng/hạt ra đời.
Người Nhật Bản
đã dùng tiếng Hán dịch thuật ngữ "quantum" là ryoshi, đọc
ra âm Hán Việt là "lượng tử" (lượng: năng lượng, tử: con, phần
nhỏ), biểu hiện đúng ý nghĩa của quantum. Công thức vĩ đại, E
= hn, hàm
chứa tính hạt của sóng, cũng là khởi điểm của bộ môn cơ học
lượng tử. Trị số của h rất nhỏ (6,626 x 10-34
J.s) nhưng đằng sau các cột
trụ quan trọng của cơ học lượng tử, hằng số Planck không bao giờ
vắng bóng. Nó hiện hữu trong mọi công thức quan trọng liên quan
đến cơ học lượng tử và chi phối việc "đi đứng" của các vật chất
cực nhỏ của thế giới vi mô. Cho đến ngày hôm nay, cơ học lượng
tử càng ngày càng phục vụ nhân loại một cách đắc lực từ chiếc
radio, TV bình thường đến chiếc máy tính, CD player, iPod, điện
thoại cầm tay và những thiết bị khoa học, y học, viễn thông, cải
thiện đời sống và sức khỏe con người.
2. Trước hai
ngả đường: cơ học cổ điển và lượng tử
Khi gặp phải
một vấn đề không rõ rệt, người Nam Bộ có một câu nói dí dỏm
nhưng mộc mạc, chân thành: "coi dzậy mà hổng phải dzậy". Trong
vật lý, nó diễn tả một cách bình dân những cơ bản của cơ học
lượng tử như tính xác suất, tính bất định và bản chất nhị nguyên
sóng/hạt của vật chất trong thế giới vi mô của phân tử, nguyên
tử, điện tử và các hạt sơ cấp hạ nguyên tử (subatomic particle).
Kể từ đầu thế kỷ 20, khi hằng số Planck xuất hiện trong định
luật bức xạ và tiếp theo đó một loạt lý thuyết như hiệu ứng
quang điện Einstein, phương trình sóng Schrödinger, định luật de
Broglie, nguyên lý bất định Heisenberg, những điều hiểu biết dựa
theo "thường thức" (common sense) của thế giới đời thường được
lý giải qua cơ học cổ điển Newton hoàn toàn bị đảo lộn. Trước
những phát hiện vĩ đại này, đã có một thời gian dài các nhà khoa
học đã từng hoang mang, thậm chí chế diễu trước những khám
phá mang tính triệt để và dứt khoát của một cuộc cách mạng khoa
học.
Trong thế giới
bất định của cơ học lượng tử, để hiểu được sự hiện hữu, di động
và tương tác của vật chất cực nhỏ ta cần đến một tư duy khác phá
tan những xiềng xích trói buộc của cơ học cổ điển. Khi một chiếc
xe hơi chạy với vận tốc 100 km/h, thì ta có thể tiên liệu rằng
sau 1 tiếng đồng hồ chiếc xe xuất phát từ điểm A sẽ đến điểm B
cách đó 100 km. Đây là kết quả tất định của chiếc xe. Nhưng
trong thế giới của các hạt nhỏ, ta không thể xác định vị trí của
hạt chính xác 100 %. Khác với chiếc xe hơi, vận tốc và vị trí
của vi hạt không thể đo đạc một cách chính xác cùng một lúc vì
sự nhoè lượng tử. Nguyên lý bất định Heisenberg đã định lượng
hóa độ nhoè này bằng một công thức đơn giản chứa hằng số Planck.
Cái mù
mịt về vị trí hay tính chất phi định xứ (non-locality) của vi
hạt là một đặc điểm khác của cơ học lượng tử. Ở cùng một thời
điểm chúng như bóng ma có thể ở nhiều nơi khác nhau với những
xác suất định vị khác nhau. Đây là việc kỳ lạ theo trực giác đời
thường nhưng xảy ra trong thế giới vi mô. Xác suất này có thể
tính được từ phương trình sóng nổi tiếng của Schrödinger. Phương
trình được diễn tả dưới một dạng đơn giản, Hy
= Ey,
y
là hàm số sóng. Bình phương của
y
là xác suất hiện hữu của hạt ở một vị trí nào đó. Tính ngẫu
nhiên từ xác suất của phương trình Schrödinger và sự nhòe mờ
trong nguyên lý bất định Heisenberg ngự trị thế giới vi mô của
cơ học lượng tử. Cái "có có không không" nầy đã cho con người
một vũ khí suy luận về đặc tính vật lý của những cái nhỏ nhất
nơi mà những định luật của cơ học cổ điển phải lùi bước. Có lẽ
khi khám phá ra phương trình nầy Schrödinger còn cao hứng hơn cả
Archimede khi phát hiện được sức đẩy của nước lúc ngâm trong bồn
tắm; Archimede nhảy ào ra khỏi bồn chạy ra ngoài đường trần
truồng như nhộng la lớn "Eureka!" (tìm ra rồi!). Erwin
Schrödinger người Áo, đã viết ra phương trình này trong những
ngày đắm say của một cuộc hẹn hò lãng mạn với người bạn gái
trong vùng rừng núi Alps… Ông quả là một nhà khoa học lãng tử
hào hoa, cùng một lúc phụng sự cho cả khoa học và tình yêu!
Công thức
Planck, E = hn, biểu
hiện tính hạt của sóng; năng lượng quang tử, E, được biểu
thị bởi tần số sóng n. Gần
20 năm sau định luật bức xạ Planck, nhà vật lý người Pháp,
Louise de Broglie, táo bạo đưa ra một đề xuất ngược lại cho
rằng hạt cũng có thể là sóng. Từ công thức E = hn, ông
cho thấy vi hạt (điện tử và các hạt sơ cấp) khi di chuyển ở vận
tốc v sẽ tương ứng với sóng với bước sóng
l
= h/mv (h là hằng số Planck, m là khối lượng
hạt và v là vận tốc). Một lần nữa, ta thấy lưỡng tính
sóng/hạt xuất hiện trong công thức de Broglie; bước sóng
l
tùy thuộc vào khối lượng hạt m. Thí nghiệm đã chứng minh
sự di động của điện tử, vốn là hạt, sinh ra hiện tượng giao
thoa, nhiễu xạ của sóng. Thí dụ khi điện tử di chuyển trong một
điện trường có điện áp 1 volt, điện tử có bước sóng là 1,2 x 10-9
m (vùng của tia X) [1]. Như vậy, trái banh golf khi chuyển động
có trở thành sóng không? Theo de Broglie, trái banh golf (hay
những vật di động như chim bay, cò bay, xe chạy, người đi....)
cũng có dạng sóng. Ta hãy dùng con tính cho dễ hiểu. Dùng công
thức de Broglie, ta tính được "bước sóng" của banh ở độ dài
khoảng 10-34 m [2], nhưng trị số này quá nhỏ để có
những hiện tượng mang tính chất sóng như nhiễu xạ và giao
thoa xảy ra. Vì vậy, theo những trải nghiệm thường ngày, một cú
vớt banh trên sân golf dù nhìn thế nào đi nữa thì banh vẫn là
banh!
Sau cú vớt,
trái banh golf bay lạc hướng va vào một gốc cây, theo định luật
tác lực và phản lực Newton trái banh golf sẽ bị dội trở lại.
Chuyện bình thường không gì phải ngạc nhiên. Nhưng cái ngạc
nhiên là khi trái banh được thu nhỏ đến kích cỡ của điện tử thì
trái banh có thể đi "xuyên" qua vật chắn vì "banh" bây giờ có
tác dụng như sóng. Lại thêm một hiện tượng "ma quái" khác của cơ
học lượng tử được gọi là hiệu ứng đường hầm (tunelling effect).
Nhìn lại công thức bước sóng của de Broglie, ta nhận ra ngay chỉ
có những vật cực nhỏ với khối lượng cực nhỏ mới cho bước sóng có
một con số đủ lớn để hiệu ứng này xảy ra.
Tính nhị nguyên
sóng/hạt là một đặc tính tiêu biểu của cơ học lượng tử.
Schrödinger khi đề cập đến bản chất của những hạt sơ cấp từng
nói "Không nên nhìn một hạt như là một thực thể cố định mà
hãy xem nó như là sự kiện nhất thời. Đôi khi những sự kiện nầy
liên kết với nhau cho ra một ảo giác của những thực thể cố định"
(It is better not to view a particle as a permanent entity, but
rather as an instantaneous event. Sometimes these events link
together to create the illusion of permanent entities) [3]. Khó
hiểu? Có lẽ. Nhưng ta đừng đánh giá thấp khả năng tư duy của
mình vì ta đang bẻ cong hay phải đi ngược với trực giác đã được
thành hình qua những trải nghiệm của cuộc sống đời thường. Chính
vì vậy khi bàn về lượng tử, giáo sư Richard Feynman từng nói
"Nếu bạn nghĩ rằng bạn đã hiểu cơ học lượng tử, thì bạn thật ra
chưa hiểu gì về nó cả". Tuy nhiên, cái mù mịt lượng
tử sẽ sáng tỏ hơn khi ta đặt cái ảo giác của Schrödinger trong
cái nhìn triết học Phật giáo, khi mà bản chất vô ngã, vô
thường của vật chất - lúc sóng lúc hạt, "vậy mà không
vậy" - thật ra chỉ là kết quả của cõi ta bà phản ánh điều kiện
thí nghiệm và sự đo đạc của người quan sát.
Như vậy, đâu là
lằn ranh giữa vật chất vĩ mô tuân theo cơ học cổ điển và vật
chất vi mô của thế giới lượng tử. Các bậc tiền bối như Bohr,
Heisenberg và von Neumann vẫn nhấn mạnh sự phân chia giữa hai
phạm trù cổ điển và lượng tử, mặc dù các ông cũng thừa nhận
rằng chưa có qui luật vật lý nào có thể định vị rõ rệt lằn ranh
"đổi đời" này. Gần đây (năm 2005), một nhóm nghiên cứu tại Áo
và Đức [4] dùng giao thoa kế phân tử (molecular
interferometry) tìm kiếm lằn ranh này qua sự kiểm nhận vạch giao
thoa của các loại phân tử trong chân không bằng cách tăng dần độ
lớn phân tử cho đến khi các vạch này biến mất. Các phân tử lớn
như quả bóng C70 (70 nguyên tử carbon, đường kính 1
nm), phân tử sinh học C44H30N4
(đường kính 2 nm) và phân tử nặng ký C60F48
(phân tử lượng = 1632, đường kính 1 nm), đã cho thấy vạch giao
thoa. Tính nhị nguyên sóng/hạt được xác lập. Phân tử C60F48
là phân tử có phân tử lượng cao nhất từ trước đến giờ được ghi
nhận mang tính nhị nguyên sóng/hạt. Tuy nhiên, khi có sự tác
động của phân tử khí của môi trường xung quanh. Các vạch giao
thoa bị nhoè đi nhanh chóng. Tính chất sóng của hạt bị suy giảm
rồi tan biến. Thí nghiệm này cho thấy một kết quả quan trọng là
ngoài kích thước, sự tương tác va chạm với vật chất trong môi
trường ảnh hưởng đến tính nhị nguyên sóng/hạt trong thế giới vi
mô.
Lằn ranh
giữa cơ học cổ điển và lượng tử, tất định và bất định không phải
là một đường biên rõ rệt mà tùy thuộc vào điều kiện thí nghiệm
và môi trường xung quanh. Ta lại thấy bản chất vô ngã của sự
vật. Thuyết duyên sinh trong Phật giáo nói đến sự liên hệ hỗ
tương của vạn vật; "cái này sinh cái kia sinh, cái này diệt cái
kia diệt". Vì duyên sinh nên vô ngả. Lằn ranh mờ ảo giữa cơ học
cổ điển và cơ học lượng tử lúc ẩn lúc hiện tùy vào sự tương tác
của vật được quan sát và môi trường xung quanh, chẳng qua cũng
không ngoài sự chi phối của duyên sinh bao trùm vũ trụ.
Vào thập niên
70 của thế kỷ trước, những thiết bị thực nghiệm tinh vi ra đời.
Những định luật lượng tử đầu thế kỷ 20 vừa mang tính triết học
vừa mang tính khoa học ẩn tàng một chút ma quái giờ đây được
kiểm chứng với những thành công vượt bực. Những phát hiện bất
ngờ từ các kết quả của thực nghiệm lượng tử không những giải tỏa
được nhiều băn khoăn cũ xung quanh những cuộc tranh luận giữa
Einstein và Bohr, mà còn cho các nhà vật lý một khung trời
mới trong việc tạo lập cơ sở cho môn tin học lượng tử (quantum
information) mà đỉnh cao sẽ là máy tính lượng tử và các phương
tiện viễn thông lượng tử.
Mặt khác, sự
xuất hiện của nền công nghệ nano vào thập niên 90 đã trở
thành một mục tiêu cho các ứng dụng tuân theo cơ học lượng tử.
Các vật liệu nano trong phạm vi từ 1 dến 10 nm (nanomét) nằm
giữa kích cỡ của các loại phân tử nhỏ và vật liệu khối. Để cho
thấy độ nhỏ cũng như "độ lớn" của vật liệu nano, 2 gram hạt nano
có đường kính 100 nm có thể phân phát cho toàn thể 6 tỷ người
trên quả đất này mỗi người 300.000 hạt; 1 gram ống than nano có
diện tích bề mặt là 1.600 m2 rộng tương đương với 8
sân tennis. Tính chất của vật liệu nano không phải như vật liệu
khối mà cũng không giống các hợp chất phân tử, vừa nằm trong
vòng chi phối của các qui luật vật lý cổ điển vừa tùy thuộc vào
thuyết lượng tử. Những tính chất này bao gồm cơ tính, lý tính,
quang tính, từ tính, hóa tính, biến đổi tùy vào độ lớn của hạt
(dây, sợi) nano, khoảng cách các hạt (dây, sợi) và hình dạng của
nó. Như ta sẽ thấy ở phần kế tiếp, ảnh hưởng của cơ học lượng tử
trên vật liệu nano cho ta những hiện tượng thú vị và những ứng
dụng vô cùng to lớn.
3. Ảnh hưởng
của sự thu nhỏ Hơn 15 năm qua,
việc chế tạo các loại tinh thể nano, hạt nano kim loại, kim loại
từ tính và bán dẫn có kích thước từ vài nm đến vài chục nm có sự
tiến bộ vượt bực. Phương pháp tổng hợp hạt nano có kích thước
vài nm và đơn phân bố (monodispersion) được trình bày tỉ mỉ
trong một bài báo cáo tổng quan đặc sắc gần đây [5]. Trước khi
khảo sát ảnh hưởng của các qui luật lượng tử đến vật liệu nano,
ta hãy xem sự thu nhỏ tự bản thân đã mang lại những thay đổi nào
đến các đặc tính của vật liệu.
Sự gia tăng bề
mặt ở cấp độ triệu lần đến tỷ lần khi vật chất thu nhỏ từ mức vĩ
mô, trung mô (m, cm, mm, µm) đến cấp nanomét làm thay đổi lý
tính, quang tính, từ tính và các đặc tính nhiệt động học của vật
chất đó. Những "hằng số tự nhiên" của vật liệu khối mà ta ngỡ là
bất biến, khi ở mức nm trở thành khả biến theo độ lớn hạt. Thật
ra, các đặc tính của vật liệu tùy vào sự nối kết, cấu trúc của
nguyên tử gồm nguyên tử bên trong (bulk) và nguyên tử bề mặt. Ở
kích thước đời thường, số nguyên tử bề mặt gần như không đáng kể
so với số nguyên tử bên trong. Khi bị thu nhỏ đến nanomét, bề
mặt gia tăng và số nguyên tử bề mặt cũng gia tăng. Ta hãy xem
vài thí dụ đơn giản về độ nóng chảy, từ tính và cơ tính của một
số vật liệu.
Độ nóng chảy
của vàng khối là 1.064 °C.
Khi vàng ở độ lớn cm, mm, thậm chí µm, các tỉ lệ nguyên tử vàng
ở bề mặt so với nguyên tử bên trong vật chất có thể xem như là
không đáng kể. Độ nóng chảy còn duy trì ở khoảng 1.000
°C khi
hạt vàng có độ lớn 50 nm vì nguyên tử ở bề mặt chỉ chiếm 6 %.
Tuy nhiên, khi hạt nhỏ hơn 5 nm (chứa 3600 nguyên tử vàng)
nguyên tử bề mặt chiếm 20 %, độ nóng chảy giảm đến 900
°C
và đến 350 °C
khi hạt ở kích thước 2 nm (200 nguyên tử vàng, nguyên tử bề mặt
50 %). Sự chênh lệch vài trăm
°C
do sự khác biệt chỉ vài nanomét giữa 2 - 5 nm cho thấy tầm quan
trọng của ảnh hưởng độ lớn ở thứ nguyên nano. Khi ngoại suy đến
kích thước 1 nm (30 nguyên tử, nguyên tử bề mặt 80 %) thì độ
nóng chảy chỉ còn 200 °C
[6].
Một thí dụ khác
quan trọng hơn là từ tính. Những kim loại từ như sắt, nickel,
cobalt cho thấy vòng từ trễ "cố hữu" giữa từ trường, H, và độ từ
hóa M (Hình 1). Tuy nhiên, ở dạng hạt nano vòng từ trễ khép lại
trở thành một đường cong độc nhất cho thấy đặc tính siêu thuận
từ (superparamagnetic) [7]. Nhôm không phải kim loại từ nhưng
khi hạt nano nhôm chứa 18 nguyên tử có kích thước 0,8 nm thì từ
tính xuất hiện [8]. Lý do rất phức tạp và có liên quan đến sự
sắp xếp điện tử (electronic configuration) ở thứ nguyên nano.
Tuy rằng ở thời điểm hiện tại từ tính hạt nano vẫn còn nhiều uẩn
khuất chưa được nghiên cứu triệt để và toàn diện, nhưng có tiềm
năng rất lớn cho việc trị liệu y học hạch nhân, tải thuốc đến tế
bào, bộ cảm ứng với hiệu ứng từ trở khổng lồ (giant magnetic
resistive, GMR), tin học lượng tử, tích trữ dữ liệu.
Hình 1: Ảnh
hưởng của sự thu nhỏ trên từ tính của sắt,
(a) vòng từ trễ của
sắt khối và
(b) của hạt nano sắt (Nguồn: Wikipedia).
Cơ tính và lý
tính cũng bị ảnh hưởng của sự thu nhỏ. Đã có nhiều công trình
phát hiện sự gia tăng cơ tính về độ bền (strength) và độ dai
(toughness) của các hạt nano kim loại và ceramic. Hạt nano đồng
với kích thước 10 nm gia tăng độ cứng (hardness) 8 lần cao hơn
đồng khối. Ngoài ra, những cấu trúc bề mặt nano còn đem lại
những hiệu quả như gia tăng lực bám do lực van der Waals mô
phỏng bàn chân thạch sùng hay tạo ra bề mặt cực ghét nước
(superhydrophobic) hay cực thích nước (superhydrophilic) của một
số vật liệu.
Ảnh hưởng của
các qui luật lượng tử trên sự thu nhỏ của vật liệu ở cấp độ
nanomét là một hiện tượng nổi bật có thể quan sát qua sự tác
động của sóng điện từ trong vùng hồng ngoại, ánh sáng thấy được
và tử ngoại trên các loại hạt và cấu trúc nano. Các vật liệu ứng
đáp trở lại bằng cách phát sinh ra ánh sáng, dòng điện, chuyển
hoán năng lượng tùy vào đặc tính của khe dải năng lượng (energy
bandgap) cho ta những ứng dụng như sự phát quang, pin mặt trời,
bộ cảm ứng sóng điện từ, máy ảnh hồng ngoại và các dụng cụ quang
học, quang điện tử hữu dụng khác. Sự thành hình của khe dải năng
lượng, sự biến hóa của khe dải khi vật liệu được thu nhỏ và các
ứng dụng sẽ được khảo sát ở phần sau.
4. Dải năng
lượng điện tử và sự phát quang
Dải năng lượng
điện tử (electronic energy band) và khe dải là những đặc tính
khối rất quan trọng của chất rắn. Trong chất rắn, sự thành hình
của dải năng lượng điện tử quyết định đặc tính dẫn điện, bán dẫn
hay cách điện của chất rắn đó. Ở thể rắn, các vân đạo nguyên tử
liên kết, chồng chập lên nhau ở mọi phương hướng để tạo nên vân
đạo phân tử. Người ta phỏng tính 1 cm3 chất rắn được
1022 (10 ngàn tỷ tỷ) nguyên tử tạo thành. Trong quá
trình nầy, theo cơ học lượng tử, những mực năng lượng điện tử sẽ
được thành hình và các điện tử sẽ chiếm cứ các mực năng lượng
nầy. Như vậy, ta có 1022 vân đạo phân tử và 1022
mức năng lượng tương ứng được tạo thành. Các mức năng lượng nầy
chồng chập lên nhau theo thứ tự trị số của chúng, trở thành dải
được gọi là "dải năng lượng điện tử". Dải ở năng lượng thấp gọi
là dải hóa trị (valence band) và dải ở năng lượng cao hơn gọi là
dải dẫn điện (conduction band) (Hình 2). Vì con số 1022
là một con số rất lớn những mức năng lượng chồng chập nhau trông
giống như một dải liên tục (continuum). Như bề dày của một quyển
tự điển, từ xa nhìn thì trông như một khối liên tục, nhìn gần
thì mới thấy những trang giấy rời rạc. Sự thành hình dải năng
lượng của chất rắn có thể không liên tục, khi đó sẽ có một
"khoảng trống" xuất hiện, giống như cái mương chia ra hai vùng
năng lượng. Khoảng trống đó gọi là khe dải năng lượng (Hình 2).
Hình 2 : Dải
năng lượng điện tử: (a) kim loại (khe dải = 0 eV),
(b) chất bán
dẫn (khe dải = 1 – 1,5 eV), (c) chất cách điện (khe dải > 3 eV).
Dải đen tượng trưng cho dải hóa trị và dải trắng cho dải dẫn
điện.
Trị số của khe
dải năng lượng không những cho biết đặc tính dẫn điện, bán dẫn
và cách điện của vật liệu mà còn quyết định quang tính cho những
ứng dụng như sự phát quang (đèn LED, light emitting diode), sự
hiển thị màu sắc, pin mặt trời của các chất bán dẫn và polymer
dẫn điện. Nguyên tắc phát quang của đèn LED là khi cho một dòng
điện chạy qua, sự kết hợp giữa điện tử và lỗ trống mang điện
dương xảy ra. Trong quá trình kết hợp điện tử "nhảy" từ dải dẫn
điện (năng lượng cao) xuyên qua khe dải xuống dải hóa trị (năng
lượng thấp) (Hình 3). Năng lượng dư thừa sẽ biến thành ánh sáng
có bước sóng định bởi năng lượng khe dải Egap
[9]. Thí dụ nếu ta muốn LED phát ánh sáng đỏ (bước sóng = 720
nm, năng lượng Egap = hn
= 1,7 eV) thì ta cần một vật liệu có khe dải năng lượng khoảng
1,7 eV. Hàng loạt hợp chất bán dẫn như GaAs, GaAsP, AlGaP, GaP,
InGaN đã được chế tạo có trị số khe dải từ 1 eV đến 3,5 eV phát
ra nhiều màu sắc khác nhau bao phủ toàn thể phổ ánh sáng thấy
được (Bảng 1). Tương tự, đèn PLED (polymer light emitting diode)
dùng polymer dẫn điện cũng phát ra nhiều màu sắc tùy vào các
loại polymer có Egap khác nhau [9].

Hình 3: Sự
phát quang điện học (electroluminescence) của đèn LED.
Năng
lượng dư thừa do sự phối hợp điện tử ở năng lượng cao với
lỗ
trống (+) được biến thành ánh sáng. Màu (bước sóng) của ánh
sáng được quyết định bởi trị số của khe dải.
Bảng 1: Bước
sóng và năng lượng sóng.
Ánh sáng |
Bước sóng
l
(nm) |
Năng lượng sóng E (eV)*
|
Tia tử ngoại |
ngắn hơn 380 |
lớn hơn 3,3 |
Tím |
380 |
3,3 |
Xanh |
450 |
2,8 |
Xanh lá cây |
530 |
2,3 |
Vàng |
580 |
2,1 |
Đỏ |
720 |
1,7 |
Tia hồng ngoại |
dài hơn 720 |
nhỏ hơn 1,7 |
*Tính từ công
thức E = hn
= hc/l,
c: vận tốc ánh sáng 300.000 km/s,
l:
bước sóng; 1 eV = 1,602 x 10-19 J.
Khe dải năng
lượng của trạng thái khối biến đổi khi kích cỡ tiến
đến nanomét. Người ta thường bảo "cái bó ló cái khôn", khi vật
liệu bị "bó" trong không gian nano ta hãy thử xem chúng sẽ ló
cái "khôn" lượng tử như thế nào.
5. Chấm
lượng tử và giếng lượng tử
Những hạt vật
chất chẳng hạn như hạt kim loại có thể nhìn thấy được bằng mắt
(kích thước ~1 mm3) vẫn còn có những dải năng lượng
điện tử gần như liên tục vì số nguyên tử cấu thành còn rất lớn.
Thậm chí, một hạt có thể tích 1 µm3 chỉ có thể nhìn
thấy qua kính hiển vi cũng chứa 1010 (10 tỷ) nguyên
tử. Con số to lớn này cho biết dải năng lượng vẫn không khác gì
hạt ở kích cỡ mm3, cm3. Vì vậy, các đặc
tính của hạt 1 µm3 vẫn là đặc tính khối (bulk
properties). Nếu tiếp tục thu nhỏ, mọi việc sẽ khác đi ở thứ
nguyên nanomét. Giả dụ nếu ta có một hạt kim loại hình lập
phương có cạnh dài 5 nm (nanomét) có thể tích 125 nm3,
hạt kim loại sẽ chứa trên dưới 1.000 nguyên tử. Ở thứ nguyên cực
nhỏ này và con số 1.000 đủ nhỏ để làm gia tăng khoảng cách giữa
các bậc năng lượng điện tử. Nói một cách khác, dải năng lượng
không còn như một quyển sách dày mà trở thành những trang giấy
rời rạc. Sự "liên tục" của dải năng lượng biểu hiện đặc tính
khối tiêu biểu biến mất và được thay thế bởi những bậc năng
lượng riêng biệt khi vật chất tiến về thứ nguyên nanomét. Ta gọi
đây là sự "kìm tỏa lượng tử" (quantum confinement) hay là sự
lượng tử hóa năng lượng trong một không gian cực nhỏ. Từ thế
giới đời thường của cơ học Newton ta bước vào thế giới sa mù của
cơ học lượng tử. Và trong cái thế giới sa mù này vật liệu trở
nên "thiên biến vạn hóa" ở kích cỡ nano và cho ta biết bao ứng
dụng cực kỳ thú vị.
Để hiểu rõ sự
lượng tử hóa năng lượng trong một không gian cực nhỏ ta hãy xem
đáp án ở phần Phụ lục của bài toán "giếng lượng tử" (quantum
well) của phương trình sóng Schrödinger. Trong bài toán này, khi
kích thước tiến đến một trị số cực nhỏ năng lượng của điện tử
không còn là một dải liên tục mà những mức rời rạc từ thấp đến
cao. "Cái giếng" thật ra là hình ảnh của nguyên tử nơi mà điện
tử bị kìm giữ trong vòng cương tỏa của nguyên tử. Đường kính
"cái giếng" cũng là đường kính của nguyên tử. Phải nói đây là
bài toán đơn giản nhưng cho ra một kết quả cực kỳ quan trọng
được tóm thu bởi công thức sau (Phụ lục),
E = n2h2/8ma2
(n= 1, 2, 3, ….)
với E là
năng lượng ở bậc n, h là hằng số Planck, m
là khối lượng điện tử và a là đường kính giếng hay chấm
lượng tử.
Từ phương trình
sóng Schrödinger và với lời giải của bài toán "giếng lượng tử",
các nhà khoa học đã nghĩ ra cái giếng lượng tử thực sự bằng cách
tạo ra những "nguyên tử" nhân tạo. "Nguyên tử" này tức là chấm
lượng tử (quantum dot). Thuật ngữ nghe hơi lạ tai nhưng nó rất
cô đọng và chính xác trong việc diễn tả hình dạng và chức năng
của nó. "Chấm lượng tử" biểu hiện một vật cực nhỏ chịu ảnh hưởng
của các qui luật lượng tử. Trên thực tế, chấm lượng tử là các
hạt nano chứa vài nguyên tử đến vài ngàn nguyên tử có thể được
thành hình từ dung dịch keo (colloid). Chấm lượng tử cũng có thể
được kích hoạt để phát quang. Cũng như vật liệu khối, sự phát
quang của chấm lượng tử cũng tùy thuộc vào trị số khe dải. Nhưng
khác với vật liệu khối, chấm lượng tử phát ra nhiều màu sắc khác
nhau bằng cách thay đổi kích thước của nó. Những phần kế tiếp sẽ
giải thích cơ chế khác biệt trong sự phát quang giữa vật liệu
khối và hạt nano (chấm lượng tử).
6. Hạt nano
bán dẫn: sự phát huỳnh quang Nghiên cứu
về chấm lượng tử ở dạng tinh thể (Hình 4) hay trong dung dịch
keo thoạt đầu xuất phát từ việc chế tạo pin mặt trời trong việc
gia tăng hiệu suất biến hoán từ năng lượng mặt trời sang điện
năng. Kể từ năm 1986, nghiên cứu về chấm lượng tử gia tăng mãnh
liệt và cho đến năm 2005 đã có gần 2.000 đăng ký phát minh
(patent) cho các ứng dụng của chấm lượng tử. Vào thập niên 90
của thế kỷ trước, các nhà khoa học tại Mỹ và Nga phát hiện
các tinh thể nano bán dẫn phát ra những màu ánh sáng khác nhau
tùy vào kích cỡ của nó. Ảnh hưởng của kích cỡ vào sự phát quang
của vật liệu nano lại càng làm gia tăng cái kỳ bí của thế giới
nano.

Hình 4: Tập
hợp chấm lượng tử (tinh thể nano) silicon.
Mỗi chấm có đường
kính 7 nm và chứa 50-70 nguyên tử
silicon (Nguồn: Dr. Arthur
Nozik, National Renewable
Energy Laboratorry, Bộ Năng lượng,
Mỹ).
Sự phát huỳnh
quang (fluorescence) là hiện tượng xảy ra khi ta dùng sóng điện
từ (quang tử) kích hoạt một vật liệu, đẩy điện tử của vật liệu
này từ dải hóa trị đi xuyên qua khe dải lên dải dẫn điện ở năng
lượng cao hơn (Hình 5). Sóng kích hoạt thường là sóng mang năng
lượng cao như tia tử ngoại hay ánh sáng màu xanh. Điện tử ở năng
lượng cao vốn không ổn định lúc nào cũng muốn trở lại chốn cũ có
năng lượng thấp. Khi điện tử trở lại dải hóa trị, sự phát quang
xảy ra (Hình 5). Cũng giống như sự phát quang điện học (Hình 3),
ánh sáng phát quang có năng lượng tương đương với trị số khe
dải. Trị số khác nhau sẽ cho màu sắc khác nhau.

Hình 5: Cơ
chế của sự phát huỳnh quang.
(1): Sóng
kích hoạt; (2): Sóng phát ra; (·):
Điện tử.
Sự phát
huỳnh quang của dung dịch keo hạt nano bán dẫn CdSe (cadmium
selenide) là một thí dụ về ảnh hưởng của sự lượng tử hóa năng
lượng trên cơ chế phát quang. Dung dịch keo của hạt nano CdSe
được khảo sát với những hạt có đường kính khác nhau. Sự thay đổi
khe dải năng lượng của hạt nano CdSe do sự biến đổi của đường
kính hạt có thể khảo sát qua công thức sau,
DE
= Egap + Equantum
DE
là khe dải của hạt nano, Egap là khe
dải của trạng thái khối (= 1,74 eV) và Equantum
là năng lượng do hiệu ứng lượng tử (Hình 6). Hình 7 cho thấy sự
đổi màu của dung dịch keo CdSe từ màu xanh sang màu đỏ khi đường
kính hạt gia tăng từ 2,3 đến 5,5 nm. Màu phát quang cực kỳ nhạy
với đường kính hạt, chỉ cần khác nhau vài nanomét là màu ánh
sáng thay đổi. Lời giải của phương trình sóng Schrödinger cho ta
thấy rõ điều này. Khi đường kính hạt tăng gấp đôi, Equantum
tăng gấp bốn (công thức 4, Phụ lục). Vì độ nhạy khá cao, quá
trình tổng hợp hạt nano đòi hỏi độ đồng nhất về kích cỡ phải
thật chính xác cho một màu sắc phát quang nhất định.

Hình 6: Khe
dải năng lượng của (a) trạng thái khối và (b) hạt nano;
(1): Egap;
(2): DE
và (3): Equantum.
DE
có thể gia giảm tùy vào Equantum
do sự
chi phối của kích thước hạt (xem chi tiết trong bài).

Hình 7: Kích
thước hạt CdSe giảm từ 5,5 nm đến 2,3 nm
(từ phải sang trái)
khiến sự phát huỳnh quang của dung dịch nước
thay đổi từ màu đỏ
đến màu xanh bao phủ toàn bộ phổ ánh sáng thấy được [10].
Để có một sản
phẩm thực dụng, hạt nano được hòa lẫn vào một loại polymer trong
suốt. Tương tự như trong dung dịch, hạt nano trong polymer sẽ
phát các loại ánh sáng khác nhau và cho ta đèn phát huỳnh quang.
Cũng giống như đèn neon thủy ngân gia dụng, nguồn tia tử ngoại
được dùng trong đèn huỳnh quang hạt nano để kích hoạt các điện
tử của hạt. Loại đèn này giải quyết được những khuyết điểm đèn
LED bị vướng mắc. Để có những màu phát quang khác nhau, đèn LED
cần những vật liệu có khe dải năng lượng khác nhau. Về điểm này,
hạt nano dùng độc nhất một vật liệu và chỉ cần thay đổi kích
thước. Đèn LED rất khó phát ra ánh sáng xanh và nhất là ánh sáng
trắng. Đèn phát huỳnh quang hạt nano cũng vượt qua trở ngại này.
Các nhà khoa học tại Sandia National Laboratories thuộc Bộ Năng
lượng Mỹ (Department of Energy) đã chế tạo thành công đèn huỳnh
quang phát ánh sáng trắng bằng cách trộn hạt nano có đường kính
khác nhau phát ra ánh sáng đỏ, xanh lá cây, xanh. Tổng hợp ba
loại màu này sẽ cho ra ánh sáng trắng (Hình 8). Kỹ thuật quan
trọng trong quá trình chế tạo đèn huỳnh quang hạt nano là cần
phải tránh sự kết tập của hạt nano, vì khi có sự kết tập xảy ra,
đường kính gia tăng làm đặc tính nano biến mất và việc điều
chỉnh màu sẽ mất hiệu quả. Một thông tin gần đây [11] cho biết
ống than nano - một vật liệu thần kỳ và đa năng - khi được cắt
thành những ống rất ngắn sẽ trở nên chấm lượng tử phát quang
khi được kích hoạt bởi tia tử ngoại do hiệu ứng giếng lượng
tử.

Hình 8: Đèn
phát huỳnh quang màu xanh (trái) và màu trắng (phải)
được chế tạo
tại Sandia National Laboratories (Mỹ).
(Nguồn:
http://www.physlink.com/News/071403QuantumDotLED.cfm)
Đèn huỳnh quang
hạt nano phát ánh sáng trắng hiện nay vẫn là một đề tài nghiên
cứu quan trọng nhằm tạo ra loại đèn có tuổi thọ cao và ít hao
năng lượng [12]. Mặc dù có những ưu điểm vượt trội hơn các loại
LED trên thương trường, việc thương mãi hóa đèn huỳnh quang hạt
nano để tạo ra một sản phẩm đại trà hay chế tạo màn hình tivi
vẫn còn nhiều khó khăn và tùy thuộc vào cách tổng hợp các hạt
nano có kích thước giống nhau và cách hòa lẫn đồng đều vào các
vật liệu nền không có sự kết tập ngoài ý muốn.
7. Hạt nano
kim loại vàng: plasmon và sự phát huỳnh quang
Từ buổi bình
minh của lịch sử loài người, vàng có thể nói là bề nổi của một
nền văn minh. Hơn 3.000 năm trước, tại Ai Cập và Trung Quốc con
người đã ý thức vàng là kim loại quý, đã biết khai thác, gia
công vàng tạo ra các đồ trang sức quý giá và được xem như một
thế chấp cụ thể dự trữ cho sự phồn thịnh của một triều đại. Giá
trị về mỹ thuật hay kinh tế của vàng cho đến ngày hôm nay vẫn
không có nhiều thay đổi, nhưng trong nền công nghệ nano hiện đại
với những tiềm năng ứng dụng quan trọng của hạt nano vàng trong
quang học, quang điện tử và y học, vàng nano có lẽ còn quí giá
hơn vàng khối trên quan điểm thực dụng nhằm phụng sự cho cuộc
sống và hạnh phúc con người.
Ở trạng thái
khối, trong các áp dụng quang học hay quang điện tử, vàng hữu
dụng cho lắm thì chỉ dùng làm gương phản chiếu, kỳ dư xem như là
"bỏ đi". Tuy nhiên, vàng nano cho con người một lĩnh vực nghiên
cứu và ứng dụng hoàn toàn mới lạ. Khi sóng điện từ tác dụng lên
hạt nano vàng, tùy vào kích cỡ của hạt sóng điện từ sẽ (1) có
tác dụng sóng tuân theo hiệu ứng "cộng hưởng plasmon" của các
điện tử tự do bề mặt và (2) có tác dụng hạt khi kích cỡ của
vàng nhỏ hơn 2 nm và sự phát huỳnh quang xảy ra tuân theo qui
luật lượng tử như hạt bán dẫn CdSe. Chúng ta hãy tuần tự khảo
sát hai trường hợp thú vị này.
Đặc điểm của
kim loại là sự hiện hữu dày đặt của những điện tử tự do. Đây
cũng là nguyên nhân của sự bóng loáng bề mặt, truyền điện và
truyền nhiệt ưu việt của kim loại. Khi kim loại như vàng và bạc
ở dạng hạt nano, hạt không còn màu vàng hay bạc "cố hữu" ở trạng
thái khối mà phát ra nhiều màu sắc khác nhau tùy vào kích cỡ và
hình dạng (Hình 9). Điều này đi ngược lại những hiểu biết thường
thức trong cuộc sống hàng ngày. Hai chiếc nhẫn vàng được nấu
chảy và gia công thành một chiếc nhẫn to gấp đôi thì vẫn là
chiếc nhẫn màu vàng. Thật ra, màu sắc của hạt nano vàng và bạc
từ dung dịch keo đã được người La Mã áp dụng vào thế kỷ 4. Người
ta còn pha chế hạt nano vàng với thủy tinh để làm kính màu đỏ
"ruby" trang trí cho cửa sổ thánh đường. Mặc dù hạt nano vàng đã
được áp dụng hơn 1.700 năm, sự đổi màu của hạt chỉ được làm sáng
tỏ vào năm 1908 bởi nhà khoa học Đức, Gustav Mie, qua lời
giải dựa trên phương trình sóng điện từ Maxwell cho bài toán về
sự hấp thụ và tán xạ của sóng trên bề mặt của các hạt hình
cầu. Vì vậy, sự hiển thị màu sắc của hạt nano vàng có đường kính
từ vài chục đến vài trăm nanomét không trực tiếp liên quan đến
sự lượng tử hóa năng lượng vì sóng điện từ tác động lên những
điện tử tự do bề mặt hạt mang đặc tính sóng có cơ bản lý thuyết
dựa trên phương trình Maxwell.
Hình 9: Sự
thay đổi màu sắc của hạt nano vàng ở các kích thước khác nhau
(Nguồn: Dr.
Michael Cortie, University of Technology, Sydney, Australia).
Màu vàng quen
thuộc của vàng là sự hấp thụ ánh sáng màu xanh của phổ mặt trời
và phát ra màu vàng. Nhưng khi vàng được thu nhỏ cho đến kích cỡ
nhỏ hơn bước sóng của vùng ánh sáng thấy được (400 - 700 nm),
theo Mie hiện tượng "cộng hưởng plasmon bề mặt" (surface plasmon
resonance, SPR) xảy ra. Đây là do tác động của điện trường của
sóng điện từ (ánh sáng) vào các điện tử tự do trên bề mặt của
hạt nano. Điện trường làm phân cực hạt, dồn điện tử về một phía
tạo ra hai vùng, vùng mang điện tích âm và vùng mang điện tích
dương (Hình 10). Vì bản chất sóng nên điện trường dao động làm
cho sự phân cực bề mặt dao động theo. Sự dao động này được gọi
là "plasmon". Đám mây điện tích trên bề mặt hạt cũng sẽ dao động
lúc âm lúc dương theo nhịp điệu và cường độ của điện trường. Ở
một kích thước và hình dáng thích hợp của hạt nano, độ dao động
(tần số) của đám mây điện tích sẽ trùng hợp với độ dao động
của một vùng ánh sáng nào đó. Sự cộng hưởng xảy ra và vùng ánh
sáng này sẽ bị các hạt nano hấp thụ. Đây là một hiện tượng đặc
biệt cho vàng và bạc nhưng không thấy ở các kim loại khác như
sắt, bạch kim hay palladium.
Hình 10: Sự
phân cực điện tử bề mặt của hạt hình cầu do điện trường của sóng điện
từ.
SPR có bước
sóng hấp thụ trong khoảng 520 nm (sóng màu xanh) và ít bị ảnh
hưởng của kích thước hạt trong phạm vi từ 9 đến 22 nm (Bảng 2).
Các hạt nano hấp thụ ánh sáng xanh sẽ hiển thị màu đỏ. Khi nhìn
lại kính "ruby" đỏ mà cổ nhân đã chế tạo từ mấy trăm năm trước,
ta nhận ra ngay những hạt nano vàng được chế tạo theo phương
thức cổ truyền có kích thước 9 - 22 nm. Khi hạt càng lớn thì
bước sóng hấp thụ có bước sóng dài hơn và khi đến kích thước 99
nm, hạt hấp thụ sóng màu vàng (bước sóng 575 nm) và hiển thị màu
xanh.
Bảng 2: Sự
phân cực của điện tử bề mặt do điện trường của sóng điện từ
[13].
Đường
kính hạt (nm) |
Bước
sóng hấp thụ (nm) |
9 |
517 |
15 |
520 |
22 |
521 |
48 |
533 |
99 |
575 |
Với một sáng kiến độc
đáo, một nhóm nghiên cứu tại Rice University (Mỹ) [14] đã phủ
vàng lên hạt nano silica (thủy tinh) tạo nên vỏ nano vàng
(nanoshell). Điều chỉnh đường kính hạt silica đến 210 nm và độ
dày của vàng làm di chuyển sự hấp thụ sóng điện từ bởi SPR đến
vùng tia cận hồng ngoại (bước sóng 800 - 2.200 nm). Phương pháp
phủ vàng lên hạt thủy tinh silica tạo ra một vật liệu lai với
khả năng hấp thụ sóng bởi SPR về phía vùng phổ của những bước
sóng dài hơn vùng hồng ngoại, tiến về sóng terahertz, vi ba,
những dải sóng rất quan trọng trong công nghệ truyền
thông. Trong dải sóng này, tiềm năng ứng dụng của loại hạt
nano lai trong các dụng cụ quang điện tử gần như vô hạn.
Hiệu ứng SPR sẽ
biến mất khi vật liệu trở lại trạng thái khối. Khi các hạt nano
vàng tập tích đến độ lớn micromét, cái màu vàng quyến rũ nguyên
thủy của kim loại vàng sẽ xuất hiện trở lại. Ngược lại, hiệu ứng
SPR cũng sẽ biến mất khi hạt nano nhỏ hơn 2 nm. Ở thứ nguyên
này, ta đi vào thế giới lượng tử. Giống như chấm lượng tử bán
dẫn được đề cập bên trên, năng lượng được lượng tử hóa thành các
mức rời rạc. Sóng điện từ giờ đây có tác dụng hạt (quang
tử). Nhóm của giáo sư Robert Dickson (Georgia Institute of
Techology, Mỹ) đã tạo ra những hạt nano (chấm lượng tử) vàng với
kích thước thật chính xác chứa 5, 8, 13, 23 và 31 nguyên tử
[15]. Đây là những hạt phát huỳnh quang trong đó chùm 31
nguyên tử có đường kính lớn nhất khoảng 1 nm. Những hạt này được
xử lý bề mặt để hòa tan được trong nước. Trong dung dịch nước,
theo thứ tự kích thước từ nhỏ đến lớn khi được kích hoạt những
hạt này có khả năng phát ra tia tử ngoại, ánh sáng xanh, xanh lá
cây, đỏ và tia hồng ngoại (Hình 11). So với chấm lượng tử bán
dẫn CdSe chứa vài trăm đến hơn 1.000 nguyên tử, chấm lượng tử
vàng nhỏ hơn với vài chục nguyên tử và không có độc tính như
Cd. Vì vậy, tiềm năng áp dụng trong y học rất lớn.
Hình 11: Sự
phát huỳnh quang ánh sáng xanh của
hạt nano vàng chứa 8
nguyên tử vàng [15].
8. Giếng
lượng tử và tia hồng ngoại Tia hồng ngoại
(hồng: đỏ, ngoại: ngoài) là vùng sóng phía ngoài ánh sáng đỏ, có
bước sóng dài hơn ánh sáng đỏ trải dài từ 700 nm đến 14.000 nm
(14 µm). Tia hồng ngoại là vùng sóng điện từ vô cùng quan trọng
trong các ứng dụng viễn thông, không gian, quốc phòng và dân
dụng. Những gì ta gọi là "nhiệt" theo ý nghĩa thông thường phát
từ lò sưởi, ly nước nóng, cơ thể con người đều nằm trong vùng
sóng hồng ngoại. Mặc dù tia hồng ngoại có băng tần dải rộng
(broadband), nhưng phần lớn bị bầu không khí hấp thụ chỉ chừa
lại những "cửa sổ", tức là những vùng sóng tia hồng ngoại không
bị hấp thụ, đặc biệt là vùng sóng 3 - 5 µm và 8 - 14 µm. Hai
vùng này theo định luật bức xạ Planck tương đương một vật phát
nhiệt có nhiệt độ 300 - 600
°C (3 - 5 µm) và 30 – 40
°C
(8 - 14 µm). Một cách ngẫu nhiên, đây cũng là vùng nhiệt độ của
động cơ nổ hay động cơ phản lực và nhiệt độ con người. Vì vậy,
trong những dụng cụ cảm biến với tia hồng ngoại (infrared
detector/sensor) người ta thiết kế vật liệu có thể hấp thụ hai
vùng sóng này.
Công nghệ tia
hồng ngoại đã đạt đến mức độ trưởng thành và đã sản xuất những
dụng cụ và thiết bị quan trọng. Bộ cảm biến hồng ngoại là một bộ
phận trung tâm của tên lửa tìm nhiệt dùng để truy lùng những
nguồn nhiệt từ máy bay và tàu chiến đối phương, điều khiển tên
lửa phá tung mục tiêu. Bộ cảm biến viễn hồng ngoại (bước sóng 8
- 12 µm) là một trong những thiết bị quan trọng trong các vệ
tinh dùng để quan sát mặt đất cho mục đích quân sự và dân sự.
Một trong những dụng cụ quan trọng khác là máy ảnh hồng ngoại
chọc thủng màn đêm, xuyên qua bụi rậm chụp những bức ảnh do sự
khác biệt nhiệt độ giữa mục tiêu chụp và môi trường xung quanh
(Hình 12). Thiết bị này được gắn vào ống nhòm hoặc kính cá nhân
(goggle) xé toạt bóng tối phát hiện dễ dàng những kẻ đi ngang về
tắt, thích chui vào bụi làm những chuyện mờ ám linh tinh!
Hình 12: Hai
người lính trong bụi rậm với màn đêm dày đặt
hiện ra trong
máy ảnh hồng ngoại (Nguồn: Wikipedia).
Mặc dù nền công
nghệ hồng ngoại đã trưởng thành, nhưng chế tạo những vật liệu
cảm ứng hồng ngoại ở những bước sóng nhất định với độ nhạy cao
vẫn là những thử thách lớn trong vật liệu học. Những vật liệu
cảm thụ tia hồng ngoại thường là silicon hay là các hợp chất bán
dẫn như PtSi, InSb, InGaAs, HgCdTe. Gần đây, vật liệu hữu cơ như
ống than nano và polymer dẫn điện được khảo sát cũng cho thấy sự
cảm ứng đối với tia hồng ngoại. Khi quang tử hồng ngoại kích
hoạt điện tử của vật liệu, dòng điện xuất hiện và qua cường độ
dòng điện sự khác biệt nhiệt độ của mục tiêu được ghi nhận thành
hình ảnh. Nguyên tắc này cũng giống như máy ảnh kỹ thuật số
thông thường trong đó sự xuất hiện dòng điện là do cảm ứng với
ánh sáng thấy được.
Từ thập niên
80 của thế kỷ trước, các nhà khoa học đã ghi nhận khả năng hấp
thụ tia hồng ngoại xảy ra tại các bậc năng lượng của giếng lượng
tử. Cơ quan NASA và Jet Propulsion Laboratories (California
Institute of Technology, Mỹ) từ hai thập niên qua đã đầu tư vào
chương trình nghiên cứu "bộ cảm ứng hồng ngoại giếng lượng tử"
(quantum well infrared photodetector, QWIP) và chế tạo máy ảnh
QWIP cho vệ tinh và cho những trang bị theo dõi tên lửa đạn đạo
[16]. QWIP là chương trình nghiên cứu cơ mật quốc gia của Mỹ và
chỉ mới được giải mật vào năm 1997. Nhu cầu chế tạo những "thiên
lý nhãn" dùng trong các vệ tinh ngoài không gian để quan sát quả
địa cầu cho việc tiên đoán thời tiết, tìm kiếm quặng mỏ, trinh
sát quân sự đòi hỏi những vật liệu có thể cảm ứng tia viễn hồng
ngoại với bước sóng rất dài (> 12 µm). Ở những bước sóng dài
năng lượng càng nhỏ (E = hn
= hc/l)
và cái giếng lượng tử của phương trình sóng Schrödinger trở
thành một nền tảng cơ bản trong việc thiết kế vật liệu để đáp
ứng nhu cầu này.
Vật liệu tiêu
biểu của QWIP là hợp chất bán dẫn GaAs và AlGaAs. GaAs là một
lớp mỏng nanomét được kẹp giữa hai lớp AlGaAs. AlGaAs có khe dải
năng lượng to hơn GaAs, nên khi kết hợp lại với nhau giếng lượng
tử GaAs với đường kính vài nanomét sẽ được thành hình (Hình 13).
Kích thước của giếng GaAs được thiết kế sao cho điện tử trong
giếng được quang tử hồng ngoại kích hoạt lên bậc năng lượng cao
hơn nhảy thoát ra khỏi miệng giếng trở thành dòng điện (Hình
13). Chiều cao giếng được điều chỉnh bởi nồng độ nhôm trong hợp
chất AlGaAs và khoảng cách giữa các bậc năng lượng bởi đường
kính giếng (công thức 5, Phụ lục). Giống như trường hợp sự phát
huỳnh quang của chấm lượng tử, ta dùng một vật liệu giống nhau
chỉ cần điều chỉnh đường kính và chiều cao nano của giếng, QWIP
có thể bao trùm toàn thể vùng hồng ngoại, cảm ứng những vùng
sóng từ cận hồng ngoại (1 - 3 µm) đến viễn hồng ngọai (8 - 12
µm), cực viễn hồng ngoại (> 12 µm). Các nhà vật liệu học đi xa
hơn, thiết kế các loại giếng lượng tử có thể cảm nhận quang tử ở
vùng sóng có bước sóng dài hơn nữa tiến đến vùng sóng terahertz
(bước sóng 30 - 3000 µm, năng lượng mili eV) có nhiều áp dụng
trong y học và việc chống khủng bố, rà soát vũ khí hay bom mang
trong người.
Hình 13: Cơ
chế của QWIP. Điện tử (·)
được kích hoạt
trong giếng lượng tử nhảy ra ngoài trở thành dòng
điện.
(a): AlGaAs; (b):GaAs; (1) (2): Khe dải năng lượng;
(.....): Bậc năng lượng trong giếng do sự lượng tử hóa.
Những tiến bộ
trong cách tạo hình chấm lượng tử bán dẫn trong công nghệ
nano đưa đến việc áp dụng chấm lượng tử trong bộ cảm ứng hồng
ngoại (quantum dot infrared detector, QDIP). Những năm gần đây,
rất nhiều kết quả của các công trình QDIP đã được công bố trên
các tạp chí chuyên ngành [17]. Theo lý thuyết QDIP có độ nhạy
cao hơn QWIP và các hợp chất bán dẫn cảm ứng ở vùng viễn hồng
ngoại, nhưng chúng cần thời gian cho sự nghiên cứu để trở thành
các sản phẩm điện tử và quang điện tử hữu dụng.
Chỉ trong vòng
20 năm QWIP đã có những bứt phá kỹ thuật và trở thành một bộ môn
quan trọng trong công nghệ bán dẫn. Lý thuyết về QWIP đã được
viết thành sách [18-19], và những phương thức trong công nghệ
nano tạo ra vật liệu nano với độ chính xác cấp nanomét sẽ cho ta
những dụng cụ hồng ngoại, terahertz thỏa mãn độ nhạy và chức
năng cao trong một tương lai không xa.
9. Tiềm năng
ứng dụng
Ngoài sự phát quang, việc
chuyển hoán năng lượng mặt trời thành điện năng là một ứng dụng
quan trọng khác của chấm lượng tử với hiệu suất kinh ngạc 300 %,
vượt trội hơn tất cả vật liệu được biết từ trước đến nay (hiệu
suất của pin mặt trời silicon trên thương trường chỉ có 15 %)
[20]. Vật liệu nano còn có một ứng dụng nổi bật là trị
liệu, chẩn đoán bệnh, tải thuốc đến tế bào bệnh và các áp
dụng trong khác nghiên cứu y sinh học. Sự phát sáng huỳnh quang
không ngừng ở việc tạo các loại bóng đèn nhiều màu sắc. Chấm
lượng tử (hạt nano) được "gắn" vào các phân tử sinh học trong tế
bào. Dưới sự kích hoạt của tia tử ngoại, chấm lượng tử phát
quang giống như cây thông Giáng sinh trong tế bào, giúp ta phân
biệt phân tử ta muốn quan sát với các phân tử xung quanh. Các
nhà khoa học tận dụng hiệu ứng cộng hưởng plasmon của hạt nano
vàng tạo ra bộ cảm ứng sinh học và sự phát huỳnh quang trong
việc trị liệu ung thư. “Thiên lý nhãn” QWIP bao trùm cả vùng
hồng ngoại và sóng terahertz là một loại thiết bị cảm ứng đa
năng, khi áp dụng cho thiên văn có khả năng "nhìn" thấy những
hành tinh lạnh chơi vơi trong vũ trụ, hay gần gũi hơn nhìn địa
cầu từ vệ tinh, và khi hướng vào cơ thể con người QWIP giúp y sĩ
định vị khối u ung thư, gia tăng sự chính xác cho quá trình phẫu
thuật.
Tất cả những
tiềm năng ứng dụng nhiều hứa hẹn này nằm ngoài khuôn khổ bài
viết và sẽ được đề cập ở một cơ hội khác.
10. Thượng
đế đổ xí ngầu! Mặc dù Einstein
là người “đã thấy rõ hơn ai hết trước ông nền tảng xác suất
của các định luật vật lý, và ông là người tiên phong trong cuộc
chiến đấu chinh phục sự hoang dã của các hiện tượng lượng tử”
(Max Born) [21], nhưng cuối cùng Einstein không tin vào tính xác
suất như nền tảng của thế giới vi mô. Cho đến ngày ông qua
đời, Einstein không tin cơ học lượng tử là một lý thuyết hoàn
chỉnh. Ông đã hoài nghi nguyên lý bất định Heisenberg rồi sau đó
phải công nhận nó, nhưng vẫn bất đồng ý kiến với Bohr về thế
giới quan lượng tử, được diễn tả qua câu nói "Thượng đế không
đổ xí ngầu" (God does not play dice). Câu nói đã là một ám
ảnh lớn của các nhà khoa học nhiều thập niên liền, làm cho nhiều
trí tuệ lớn trong vật lý phải ngập ngừng, bối rối. Nhưng định lý
Bell (1964) và các kiểm tra thực nghiệm nối tiếp sau đó đã chứng
minh rằng Thượng đế quả thật đã đổ xí ngầu [21]. Và Thượng đế
chơi trò này rất giỏi vì ngày hôm nay biết bao ứng dụng điện tử,
quang điện tử hữu ích cho con người đã xuất hiện nhờ vào tính
chất xác suất của thế giới lượng tử.
Bước vào thế kỷ
21, cơ học lượng tử không còn mang màu sắc huyền bí của triết
học hay chỉ là một cuộc chơi toán học cao cấp thỏa mãn tính hiếu
kỳ hàn lâm, mà nó đã được khoát lên chiếc áo thực dụng với những
áp dụng quan trọng trong tin học lượng tử (quantum information)
và công nghệ nano. Như trong bài viết này đã trình bày, sự thu
nhỏ của vật liệu đến cấp nanomét đã cho thấy rõ sự chi phối
lượng tử, tạo ra những bậc năng lượng rời rạc. Chỉ cần những qui
luật cơ bản nhất trong cơ học lượng tử cũng đủ để cho ra những
ứng dụng cực kỳ mới lạ qua sự tác động của sóng điện từ trên các
vật liệu nano trải rộng từ sóng terahertz, viễn hồng ngoại cho
đến vùng ánh sáng thấy được, tia tử ngoại, bao trùm một vùng to
lớn của sóng điện từ với bước sóng kéo dài từ vài ngàn micromét
đến vài trăm nanomét. Điều này phản ánh sự thành công lớn của
cảm ứng hồng ngoại trong nền công nghiệp bán dẫn hiện đại.
Vật liệu nano
trở thành một sân chơi để cơ học lượng tử thao túng và khẳng
định tiềm năng áp dụng của mình. Cơ học lượng tử cũng là ánh
đuốc dẫn đường định hướng việc chế tạo những vật liệu nano mới
cho các ứng dụng tương lai trong điện tử, quang điện tử và quang
tử học. Tinh thể nano, hạt nano, ống nano, que nano của các chất
hữu cơ, oxide kim loại hay bán dẫn vô cơ với nhiều hình dạng và
kích thước khác nhau, lần lượt xuất hiện trong các phòng thí
nghiệm trên thế giới. Đèn LED, đèn huỳnh quang hạt nano cho
những tiềm năng ứng dụng vô cùng phong phú của công nghệ "xanh"
theo tiêu chuẩn ít tiêu hao năng lượng, giảm thiểu ô nhiểm và
gìn giữ môi sinh. Lượng tử và nano cũng là bàn tay êm dịu của
người hiền mẫu. Chúng là cột sống của những áp dụng y khoa hiện
đại càng lúc càng đem đến nhiều thành quả bất ngờ trong việc
định vị, kết hợp, cảm ứng với phân tử sinh học, tải thuốc, phát
hiện tế bào ung thư cho việc trị liệu và phẫu thuật.
Khi những công
trình nghiên cứu thuần lý của cơ học lượng tử được kết hợp với
cứu cánh thực dụng của nền công nghệ nano, nhiều ý tưởng mới sẽ
nảy sinh, nâng cao lý luận vật lý vượt ra ngoài phạm vi hiện có,
cũng như tạo ra nhiều cơ hội cho các nghiên cứu đa ngành để hình
thành các loại vật liệu mới với những ứng dụng siêu việt cho
cuộc sống đời thường. Có thể khẳng định rằng những điều này sẽ
không xảy ra nếu không có hằng số Planck; một hằng số khiêm tốn
có một trị số rất nhỏ nhưng ảnh hưởng thật là vĩ đại. Nó mang
tính phổ quát bao trùm vũ trụ, ngự trị thế giới của vật chất cực
nhỏ đến thế giới của vô số các thiên hà bao la, làm thay đổi sự
hiểu biết về vũ trụ, và tiếp tục phong phú hóa cuộc sống con
người trên quả địa cầu nhỏ bé này.
Trương Văn Tân
Tháng 8, 2008
Cuối Đông Nam bán
cầu
Phụ lục: Bài
toán chấm lượng tử và giếng lượng tử của phương trình sóng
Schrödinger
Chi tiết về
phương trình sóng Schrödinger có thể tìm thấy ở các sách giáo
khoa hóa lý của năm thứ nhất đại học. Ở đây, lời giải về các bậc
năng lượng của giếng lượng tử sẽ được trình bày. Phương trình
sóng Schrödinger là một phương trình vi phân, cho trường hợp một
thứ nguyên x, được viết như sau,
(-h2/8p2m)(d2y/dx2)
= Ey
(1)
h là
hằng số Plack (6,626 x 10-34 J.s), m là khối
lượng điện tử, E là các bậc năng lượng điện tử,
y
là hàm số sóng. Lời giải của phương trình (1) cho giếng hay
chấm lượng tử có đường kính a là,
y
= A sin(npx/a)
n= 1, 2, 3, …. (2)
A là một
hằng số, n là số thứ tự của các bậc năng lượng (Hình P1)
Thay công thức
(2) vào (1), ta có
E = n2h2/8ma2
n= 1, 2, 3, …. (3)
Khi n = 1
ta có
E1 =
Equantum = h2/8ma2
(4)
Độ sai biệt
năng lượng giữa bậc n =1 và n = 2 là
E2
- E1 = 3h2/8ma2
(5)
Kết quả trên
cho ta thấy hằng số Planck, h, chi phối trị số năng lượng
và sai biệt giữa các mực năng lượng (công thức 4 và 5). Vì hằng
số Planck rất nhỏ, theo công thức trên đối với những vật có ở
kích thước vĩ mô, trung mô (m, cm, mm, µm), các trị số này gần
như zero. Vì vậy, dải năng lượng cho ta cảm giác gần như liên
tục. Tuy nhiên, khi a ở thứ nguyên nanomét như trong
trường hợp giếng lượng tử hay chấm lượng tử độ sai biệt giữa các
bậc năng lượng tăng lên đáng kể và không thể xem như là zero
nữa. Các bậc năng lượng trở nên rời rạc, ta gọi đây là sự lượng
tử hóa năng lượng.
Hình P1: Các
bậc năng lượng điện tử của chấm
lượng tử hay giếng lượng tử có
đường kính a.
Tài liệu
tham khảo và chú thích
- Để một điện tử di chuyển
trong điện áp 1 volt, ta cần năng lượng 1 electron-volt (eV)
(E = 1 eV = 1,602 x 10-19 J). Vận tốc v
được tính từ E = 1/2 (mv2),
v= 5,93 x 105 m/s. Khối lượng m của
electron là 9,1 x 10-28 g. Từ công thức de
Broglie, l
= h/mv, l
= 1,2 x 10-9 m.
- Một cú vớt sẽ làm trái
banh golf (khối lượng m = 45 g) bay với vận tốc 30
m/s. Dùng công thức de Broglie, bước sóng của trái banh golf
là 4,9 x 10-34 m. Đây là con số cực kỳ nhỏ và vô
nghĩa.
- Matthieu Ricards and Trinh
Xuan Thuan, "The quantum and the lotus", Three Rivers Press,
New York, 2001.
- M. Arndt, K. Hornberger
and A. Zeilinger, Physics World, March 2005, pp.35.
- J. Park, J. Joo, S.G.
Kwon, Y. Jang and T. Hyeon, Angnew. Chem. Int. Ed.,
46 (2007) 4630.
- M.B. Cortie, Gold
Bulletin, 37 (2004) 1.
- K.S. Suslick, M. Fang,
T. Hyeon, J. Am. Chem. Soc., 118 (1996) 11960.
- W. Eberhart, Surface
Science, 500 (2002) 242.
- Trương Văn Tân, "Vật
liệu tiên tiến: từ polymer dẫn điện đến ống than nano",
nxb Trẻ, TP HCM, 2008.
- B.O. Dabbousi, J.
Rodriguez – Viejo, F.V. Mikulec, J.R. Heine, H. Mattoussi,
R. Ober, K.F. Jensen and M.G. Bawendi, J. Phys. Chem. B,
101 (1997) 9463.
- Photonics Spectra,
June 2008, pp.98.
- H.S. Jang, H. Yang, S.W.
Kim, J.Y. Han, S.G. Lee and D.Y. Jeon, Adv. Mater,
20 (2008) 2696.
- M.-C. Daniel and D.
Astruc, Chem. Rev., 104 (2004) 293.
- S.J. Odenburg, J.B.
Jacson, S.L. Westcott and N.J. Halas, Appl. Phys. Lett.,
75 (1999) 2897.
- J. Zheng, C. Zhang, R.M.
Dickson, Phys. Rev. Lett., 93 (2004) 077402-1.
- S.D. Gunapala et al,
Infrared Phys. & Tech., 42 (2001) 267.
- J. Jiang et al, Appl.
Phys.Lett., 84 (2004) 2166.
- K.K. Choi, "The physics
of quantum well infrared photodetectors", World
Scientific, London, 1997.
- H. Schneider and H.C. Liu,
"Quantum well infrared photodetectors", Springer,
Berlin New York, 2007.
- R.J. Ellingson, M.C.
Beard, J.C. Johnson, P. Yu, O.I. Micic, A.J. Nozik, A.
Shabaev and A.L. Efros, Nano Lett., 5 (2005)
865.
- Nguyễn Xuân Xanh,
"Einstein", Chương 7, nxb Tổng hợp TP HCM, 2007.
Trích từ Max Planck, Người Khai Sáng Thuyết
Lượng Tử, Kỷ yếu mừng sinh nhật thứ 150.
Chủ biên: Phạm Xuân Yêm - Nguyễn Xuân Xanh - Trịnh Xuân
Thuận - Chu Hảo - Đào Vọng Đức. Nhà xuất bản: Tri Thức, Hà
Nội
© http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Trương Văn Tân
|