Ba cái chết cho ngôi sao |
Vietsciences- Trịnh Xuân Thuận 17/03/2007 Võ Thị Diệu Hằng chuyển ngữ |
|
Ba cái chết cho ngôi sao |
|
Trois morts pour l'étoile |
Chúng ta hãy theo dõi định mệnh của một ngôi sao có khối lượng nhỏ hơn 1,4 lần khối lượng Mặt trời. Nó tắt một cách thanh thản. Khi hết nhiên liệu, ngôi sao chuyển từ kích thước của các sao khổng lồ đỏ (bán kính 50 triệu km ) đến kích thước của trái Đất (bán kính khoảng 6000 km). Ngôi sao trở thành sao lùn (H. 1). Nó rất nóng vì năng lượng của chuyển động sụp đổ biến đổi ra nhiệt. Nhiệt độ ở bề mặt của nó cấp 6000° . Nhiệt được bức xạ ra không gian. Màu trắng của bức xạ giống bức xạ Mặt trời nên nó có tên là sao "sao lùn trắng". Mật độ của nó rất lớn: 1cm3 sao sao lùn trắng nặng 1 tấn. Nhưng cái gì đã ngăn cản sao lùn trắng không sụp đổ thêm nữa? Ai chống lại trọng lực? Chắc chắn không phải là bức xạ, vì nó đã trở nên rất yếu. Nhà vật lý người Đức Wolfang Pauli, một trong những người sáng lập ra Cơ học Lượng tử, cho chúng ta câu trả lời. Vào năm 1925, ông khám phá ra rằng hai electron không thể bị nén lại với nhau được: chúng loại trừ nhau (khám phá của Pauli được biết dưới tên"Nguyên lý ngoại trừ".) Trong lúc sụp đổ, ngôi sao nén
các electron mà nó chứa
trong một thể tích
càng ngày càng nhỏ. Càng bị nén chặt,
các electron càng chống cự và tìm cách
trốn thoát. Sự kháng cự này tạo nên một
áp lực chống lại trọng lực, làm cho sao lùn không sụp đổ. Sự đẩy lẫn
nhau giữa các electron này không phải
là do lực điện từ đẩy các điện tích cùng
dấu mà là một trong những biểu
lộ của Cơ học lượng tử. |
Suivons le destin d'une étoile possédant une masse inférieure à 1,4 fois la masse du Soleil. Elle s'éteint dans la sérénité. A court de combustible, l'étoile passe de la taille d'une géante rouge (50 millions de kilomètres de rayon) à celle de la Terre (environ 6 000 kilomètres de rayon). L'étoile devient naine (fig. 1). Elle est toute chaude car l'énergie du mouvement d'effondrement a été convertie en chaleur. La température de sa surface est de l'ordre de 6 000 degrés. La chaleur est rayonnée dans l'espace. La couleur blanche du rayonnement, semblable à celle du Soleil, vaut à l'étoile le nom de «naine blanche». La densité est énorme : un centimètre cube de naine blanche pèse une tonne. Mais qu'est-ce qui empêche la naine blanche de s'effondrer encore plus? Qui tient tête à la gravité? Ce n'est certes pas le rayonnement devenu trop faible. Le physicien allemand Wolfgang Pauli, l'un des fondateurs de la mécanique quantique, nous donne la réponse. Il a découvert en 1925 que deux électrons ne peuvent être comprimés ensemble: ils s'excluent mutuellement (la découverte de Pauli est connue sous le nom de «principe d'exclusion»). L'étoile, en s'effondrant, comprime les électrons qu'elle contient dans un volume de plus en plus petit. Plus ceux-ci sont entassés, et plus ils résistent et tentent de s'échapper. Cette résistance crée une pression qui, s'opposant à celle de la gravité, fait que la naine blanche ne s'effondre pas. Cette répulsion mutuelle des électrons n'est pas le fait de la force électromagnétique repoussant des charges électriques semblables, mais une des manifestations de la mécanique quantique. |
Naissance, vie et mort d'une étoile. Ce dessin donne un aperçu, tous les 100 millions d'années, des diverses étapes de la vie d'une étoile comme le Soleil : naissance à partir de l'effondrement d'un nuage interstellaire, étoile brûlant de l'hydrogène pendant 9 milliards d'années, puis transformation en géante rouge brûlant de l'hélium pendant 2 milliards d'années, avant de s'effondrer et de devenir naine blanche. A la fin de sa vie, elle est naine noire, cadavre stellaire perdu dans l'obscurité de l'immensité cosmique. Fig. 1.
|
Đồng thời với sự sụp đổ của tâm ngôi
sao, các lớp tầng bên trên tách ra khỏi ngôi sao.
Được chiếu sáng bởi sao lùn trắng, chúng có dạng như một
vành đai khí màu vàng và đỏ gọi là
"tinh vân hành tinh",
(từ ngữ gây hiểu lầm vì những tinh
vân hành tinh và hành tinh không liên
hệ gì với nhau)
(h. 2). Cái chết êm đềm này là số
phận dành cho đa số các sao (trong
đó có Mặt trời của chúng ta): những ngôi sao có
khối lượng nhỏ hơn 1,4 khối lượng
Mặt trời thống trị dân số của các thiên
hà. Cần phải có một kính thiên văn lớn
mới xác định vị trí các sao
sao lùn trắng bởi vì
chúng sáng một cách yếu
ớt. Sirius, ngôi sao sáng
nhất trong bầu trời đêm, có sao lùn
trắng làm bạn. Sao lùn trắng sẽ mất
hàng tỉ năm sức mới hết nhiệt.
Lúc cuối khi trở thành"sao lùn đen"
vô hình, nó sẽ
nhập vô hàng ngũ của
vô số xác sao chết đang
rải rác trong sự bao la của các thiên
hà. Về phần tinh vân
hành tinh, nó sẽ
phân tán trong không gian vừa gieo
trong đó
những nguyên tố nặng đã được chế tạo
trong những
lò luyện của sao. |
En même temps que l'effondrement du coeur, les couches supérieures se détachent de l'étoile. Illuminées par la naine blanche, elles prennent l'aspect d'un anneau gazeux jaune et rouge, appelé «nébuleuse planétaire» (terme trompeur, car les nébuleuses planétaires et les planètes n'ont aucun lien commun) (fig. 2). Cette mort douce est le sort réservé à la majorité des étoiles (y compris notre Soleil) : les étoiles de moins de 1,4 masses solaires dominent la population des galaxies. Il faut un grand télescope pour repérer les naines blanches, car elles brillent très faiblement. Sirius, la plus brillante étoile dans le ciel nocturne, a une naine blanche pour compagne. La naine blanche va mettre des milliards d'années à perdre sa chaleur. A la fin, transformée en «naine noire» invisible, elle rejoindra le rang des innombrables cadavres stellaires qui jonchent l'immensité des galaxies. Quant à la nébuleuse planétaire, elle se dispersera dans l'espace, l'ensemençant des éléments lourds fabriqués dans les creusets stellaires. |
Fig. 2 Tinh vân hành tinh. Hình này là tinh vân hành tinh Lyre. Đó là lớp vỏ bị đẩy bật ra bởi một sao đang hấp hối có khối lượng 1,4 khối lượng Mặt trời . Sao này vì cạn nhiên liệu, sụp đổ để thành sao lùn trắng (điểm sáng ở trung tâm của tinh vân). Chính bức xạ của sao lùn trắng chiếu sáng tinh vân hành tinh (ảnh, Hale Observatoires) Une nébuleuse planétaire. La photo montre la nébuleuse planétaire de la Lyre. C'est l'enveloppe éjectée par une étoile moribonde d'une masse inférieure à 1,4 fois la masse du Soleil. Celle-ci, à court de carburant, s'effondre pour devenir naine blanche (le point lumineux au centre de la nébuleuse). C'est le rayonnement de la naine blanche qui illumine la nébuleuse planétaire. (photo, Hale Observatoires)
Tinh vân hành tinh IC 418. Sao ở giữa biến thành tinh vân hành tinh cách đây vài ngàn năm ánh sáng. Đường kính của tinh vân hiện nay lên tới 0,2 năm ánh sáng. Hình của NASA/STScI La nébuleuse planétaire IC 418. L'étoile au centre s'est transformée en nébuleuse planétaire il y a quelques milliers d'années. Le diamètre de la nébuleuse atteint maintenant 0,2 années-lumière. Crédit : NASA/STScI
|
Chuyện gì sẽ xảy ra với ngôi sao có khối
lượng lớn hơn 1,4 khối lượng
Mặt trời? Nó
có quyền có một cơn hấp hối dữ dội hơn
rất nhiều. Nhưng còn nữa, số phận
cuối cùng sẽ đi
hướng khác nhau tùy theo ngôi sao
nặng hơn hay ít hơn
năm lần
Mặt trời.
Trước hết chúng ta hãy
quan tâm tới sự
kết thúc của một ngôi sao có khối lượng
nằm giữa 1,4 và 5 lần khối lượng
Mặt trời.
Khối lượng gia tăng của ngôi sao làm nó
nén lại mạnh hơn. Sự sụp đổ xảy ra
quá nhanh (chỉ một
phân số của giây)
đến nỗi các electrons di chuyển
nhanh hơn, không có thời gian để tổ chức
sự kháng cự chống lại trọng lực.
Giới hạn 6000 km
của bán kính sao lùn
được vượt qua
một cách nhanh nhẹn. Bán kính của lõi
sao thu lại chỉ còn 10 km. Mật độ cuối
cùng cực kỳ lớn, có thể đạt tới 1 tỷ
tấn cho 1cm3.
Như
thể
bạn nén khối lượng của 100
cái tháp Eiffel
vào một thể tích bằng đầu bút bi của
bạn. Các nhân cũng không thể
kháng cự lại
sự nén này và bị
bể thành proton và neutron. Các electron bị ép
gần
quá sức vào các proton đến nỗi chúng
buộc phải kết hợp với proton để sanh
ra neutron và neutrino. Các neutrino
mà chúng ta đã gặp trong những
khoảnh khắc đầu tiên của vũ trụ, trung
thành với tiếng tăm của chúng. Không
tương tác với vật chất,
chúng lập tức
phân tán. Tâm của sao trở thành một
"nhân" neutron khổng lồ.
Chúng chỉ sống được 15 phút ở trạng thái
tự do, mất đi ý định chết khi bị cầm tù.
Bây giờ, chính chúng chống lại trọng
lực và làm cho sao neutron không sụp đổ
nữa. Như trong trường hợp các electron,
có nguyên lý loại trừ cho các neutron
và chúng không thể ép sát với nhau quá. Vào
thời kỳ cuối của
sự sụp đổ tâm sao, một vụ nổ chớp
nhoáng xảy ra. Những lớp
giống vỏ củ hành giàu nguyên tố nặng bị bắn
tung vào không gian với tốc độ hàng
ngàn km/giây. Sự nổ đạt một độ sáng
bằng 100 triệu Mặt trời. Một điểm sáng
xuất hiện trong bầu trời, sáng gần
như nguyên cả một thiên hà. Đó là
sao siêu mới. Sự ngưng sụp đổ đột ngột
của tâm sao gây bởi sự
kháng cự các
neutron là nguồn gốc của
sự nổ khủng
khiếp này. Một sóng xung kích được tạo
ra, truyền tới bề mặt và đẩy những lớp
bên trên của ngôi sao, gây ra sự nổ. Trong các thiên hà, những cái chết nổ như vậy xảy ra khoảng mỗi thế kỷ một lần. Con người từ khi bắt đầu ghi lại những quan sát của mình đã thấy khoảng một chục cái chết như vậy trong giải Ngân Hà . Năm 1571, chàng tuổi trẻ Tycho Brahe đã quan sát được một "ngôi sao mới" trong chòm sao Cassiopée. Sự khám phá đã gieo vào trí óc ông sự nghi ngờ về những bầu trời bất biến của Aristote. Cái còn lại của vụ nổ supernova hiện nay mang tên ông. Ngày 23 tháng 2 năm 1987, một supernova trong một trong số các thiên hà sao lùn vệ tinh của Ngân Hà , đám mây Magellan lớn ở cách khoảng 150 000 năm ánh sáng, đã làm lung lay thế giới thiên văn học. Tất cả các phương tiện quan sát hiện đại (kính thiên văn lớn đặt trên mặt đất, vệ tinh không gian và những dụng cụ khác mà Tycho Brahe không thể tưởng tượng nổi) đã đóng góp với nhau để nghiên cứu hiện tượng lạ lùng này. Ngay cả những neutrino thoát ra từ tâm sụp đổ của ngôi sao chết cũng đã được thu nhận bởi các máy dò đặt sâu tới vài cây số dưới đất, trong các mỏ vàng đã được dùng vào việc khác. Nhưng một trong số những supernova
nổi tiếng nhất trong các annales (quyển
sách ghi những sự kiện từ năm này qua
năm khác) thiên văn học, chắc chắn là
sao có nguồn gốc là phần còn lại của
một vụ nổ sao mà ngày nay người ta gọi
là "Tinh vân Cua". Ngôi sao khách
này (đây là một tên rất đẹp mà các nhà
thiên văn học Trung quốc đã đặt)
xuất hiện buổi sáng ngày 4 tháng 7 năm
1054. Nó sáng như sao Vénus, ngay cả
ban ngày cũng thấy được và kéo dài
hàng mấy tuần lễ. Tuy nhiên, trong
những ghi chép Thiên văn học ở
phương Tây vào thời kỳ đó, người ta
không tìm thấy ghi
chú về nó. Các tác giả chắc tin vào vũ trụ
bất biến, không đổi của Aristote hơn là
tin vào chính mắt họ. |
Que se passe-t-il avec une étoile de plus de 1,4 masses solaires? Elle a droit à une agonie beaucoup plus violente. Mais là encore, le sort final divergera selon que l'étoile est plus ou moins massive que cinq Soleils environ. Intéressons-nous d'abord à la fin d'une étoile dont la masse est entre 1,4 et 5 masses solaires. La masse accrue de l'étoile la comprime davantage. L'effondrement se passe si vite (une fraction de seconde) que les électrons sont pris de vitesse et n'ont pas le temps d'organiser leur résistance à la gravité. Le cap des 6 000 kilomètres du rayon de la naine blanche est allégrement franchi. Le rayon du cœur de l'étoile se rétrécit jusqu'à 10 kilomètres. La densité finale est extrême. Elle peut atteindre 1 milliard de tonnes par centimètre cube. C'est comme si vous comprimiez la masse de cent tours Eiffel dans le volume de la pointe de votre stylo à bille. Les noyaux ne peuvent résister à la compression et se brisent en protons et en neutrons. Les électrons sont tellement serrés contre les protons qu'ils sont contraints de s'unir avec eux pour engendrer neutrons et neutrinos. Les neutrinos, que nous avons déjà rencontrés dans les premiers instants de l'univers, sont fidèles à leur réputation. N'interagissant pas avec la matière, ils s'échappent tout de suite. Le cœur de l'étoile devient un gigantesque «noyau» de neutrons. Ceux-ci, qui ne vivent que 15 minutes à l'état libre, perdent leur velléité de mortalité quand ils sont emprisonnés. Ce sont eux qui résistent maintenant à la gravité et font que l'étoile à neutrons ne s'effondre pas. Comme c'est le cas pour les électrons, il existe un principe d'exclusion pour les neutrons et ceux-ci ne peuvent être trop serrés ensemble. Au terme de l'effondrement du coeur, une fulgurante explosion se produit. Les couches en pelures d'oignon fertilisées en éléments lourds sont projetées dans l'espace à des milliers de kilomètres par seconde. L'explosion atteint la brillance de 100 millions de Soleils. Un point lumineux surgit dans le ciel. C'est une « supernova ». L'arrêt brutal de l'effondrement du cœur provoqué par la résistance des neutrons est à l'origine de cette explosion cataclysmique. Une onde de choc est créée, qui se propage vers la surface et repousse les couches supérieures de l'étoile, provoquant son éclatement. Dans les galaxies, ces morts explosives surviennent à peu près tous les siècles. L'homme, depuis qu'il a commencé à consigner ses observations, en a vu environ une dizaine dans la Voie lactée. En 1572, le jeune Tycho Brahe avait observé une «nouvelle étoile» dans la constellation de Cassiopée. Découverte qui sema le doute dans son esprit quant à l'immuabilité des cieux d'Aristote. Ce qui reste de la supernova porte maintenant son nom. Le 23 février 1987, une supernova dans une des galaxies naines satellites de la Voie lactée, le grand nuage de Magellan à quelque 150 000 années-lumières de distance, a secoué le monde astronomique. Tous les moyens d'observation modernes (grands télescopes au sol, satellites spatiaux et autres instruments que Tycho Brahe n'aurait jamais pu imaginer) furent mis à contribution pour étudier cet événement extraordinaire. Même les neutrinos échappés du coeur effondré de l'étoile morte furent capturés par des détecteurs placés à des kilomètres sous terre, dans des mines d'or désaffectées.
Mais une des supernovae les plus célèbres dans les annales astronomiques est sans nul doute celle qui fut à l'origine du reste de supernova qu'on appelle maintenant «nébuleuse du Crabe ». Cette «étoile invitée» (c'est le joli nom que les astronomes chinois lui donnèrent) apparut le matin du 4 juillet 1054. Aussi brillante que Vénus, elle fut visible de jour, des semaines durant. Pourtant, on ne trouve nulle mention d'elle en Occident dans les écrits astronomiques de l'époque. Leurs auteurs devaient avoir plus confiance en l'univers immuable et inchangeant d'Aristote qu'en leurs propres yeux...
|
Fig. 3. Tinh vân Cua.
La nébuleuse du Crabe. La photo montre ce qui reste de l'étoile qui a explosé dans la Voie lactée le matin du 4 juillet 1054. Le coeur de l'étoile s'est effondré en une étoile à neutrons de 10 kilomètres de rayon, située au centre de la nébuleuse, qui nous envoie périodiquement des signaux radio et qui est aussi connue sous le nom de pulsar (voir aussi la figure 4). L'enveloppe déchiquetée de l'étoile continue à se dilater, propulsée par l'énergie de l'explosion originale, et elle s'étend maintenant sur des centaines de milliards de kilomètres. Ce faisant, elle ensemence le milieu interstellaire d'éléments lourds fabriqués pendant la vie de l'étoile et au cours de l'explosion.
|
Đã
khá lâu rồi " sao chủ" đã không còn được nhìn thấy bằng mắt
trần nữa. Với kính thiên văn, người ta
có thể phân biệt được phần còn lại
của vụ nổ sao, sáng một cách
yếu ớt và có dạng giống như một con cua
nên từ đó nó có tên như vậy. Nhưng
cái làm cho nó nổi tiếng là
, người ta khám phá ra một ngôi sao neutron
bên trong lòng nó vào năm 1967. Sao này đã được các nhà
thiên văn Mỹ Walter Baade và Fritz
Zwicky tưởng tượng ra từ năm 1934, thực
sự là kết quả từ cái chết của một
ngôi sao. Nó được thể hiện dưới dạng
một ngôi sao sáng rồi tắt 30 lần trong
1 giây, do đó nó còn có tên là
pulsar. Hành
vi kỳ lạ này trước hết là do sao
neutron không phát xạ hết toàn bộ bề
mặt của nó. Ánh sáng (mà nhiều nhất là
loại radio, vô tuyến) ló ra thành
hai chùm tia giống như chùm tia sáng
phát ra từ đèn pha. Hơn nữa, sao
neutron tự quay quanh nó rất nhanh, do
đó tạo cảm giác là nó sáng rồi tắt mỗi
khi chùm tia sáng của nó quét đến trái
đất. Pulsar sắp đóng vai trò ngọn đèn
pha của bầu trời trong nhiều triệu
năm. Nguồn năng lượng dự trữ của nó
được tích trữ trong quá trình sụp đổ
rồi sẽ cạn dần. Nó quay càng ngày
càng chậm và cuối cùng sẽ không còn
bức xạ nữa. Được bao bọc bởi sự im
lặng của những cái chết, xác sao chết
này không thể được thấy
cũng như nghe nữa.
Trong giải Ngân Hà, cứ một ngàn ngôi
sao là có một ngôi sao kết thúc cuộc đời
mình thành một pulsar.
Cuối cùng, chúng ta nói đến cái chết
của ngôi sao quyết định nhất
. Đây là số phận của sao có khối lượng
lớn hơn khoảng 5 lần khối
lượng của Mặt trời
phải chịu. Khối lượng rất lớn
gây sự sụp đổ vô cùng dữ dội. Lần này,
không chỉ những electron mà ngay cả
những neutron cũng bị bất ngờ. Chúng
không có thời gian để tổ chức kháng cự
lại trọng lực. Trọng lực này không thể
dừng lại được nữa. Nó ép vật chất ở
tâm ngôi sao vào một thể tích nhỏ đến
mức trọng trường sinh
tra trở nên
vô cùng lớn.
Tâm của sao trở thành một
lỗ đen. Cũng như trong trường hợp trước, sự sụp đổ dữ dội tạo ra vụ nổ khổng lồ làm văng ra các lớp trên cùng của sao vào không gian: sự ra đời của một lỗ đen cũng được chào mừng bằng sự bùng nổ supernovae. Lần này, ngôi sao chết cũng chẳng còn để lại xác chết có thể nhìn thấy được. Từ nay về sau, như chúng ta đã biết, nó chỉ thể hiện sự có mặt của nó bằng những hiệu ứng trọng lực mà nó tác dụng lên các vất chất đi qua gần nó. Nó làm chậm thời gian. Nó biến các nhà vũ trụ quá táo bạo thành những cộng mì sợi spaghetti Ý và sẽ nghiền nát họ. Đối với người quan sát trên trái đất, lỗ đen rất khó dò ra. Trừ khi, như chúng ta đã biết, nếu nó cặp đôi với một ngôi sao khác đang còn sống. Lỗ đen lúc đó sẽ cuốn hút khí quyển của ngôi sao thấy được về phía nó. Các nguyên tử khí trong khí quyển này phát ra tia X trong lúc rơi vào lỗ đen và sẽ tiết lộ sự hiện diện của nó. Người ta nghĩ rằng có tồn tại một lỗ đen theo hướng chòm sao Cygne, chỗ có một nguồn tia X rất sáng. Trong giải Ngân Hà, các lỗ đen có các sao sao lùn và pulsar ít hơn rất nhiều: các sao nặng là thiểu số trong dân số của thiên hà.
|
Il y a déjà bien longtemps que l'étoile-hôte n'est plus visible à l'aeil nu. Avec un télescope, on peut discerner un reste de supernova rayonnant faiblement et qui a la forme d'un crabe, d'où son nom (fig. 46). Mais ce qui lui donne sa notoriété, c'est la découverte en son sein d'une étoile à neutrons, en 1967. Celle-ci, imaginée dès 1934 par les astronomes américains Walter Baade et Fritz Zwicky, résultait donc bel et bien de la mort d'une étoile. Elle se manifesta sous la forme d'une étoile qui s'allumait et s'éteignait 30 fois par seconde, d'où son nom de «pulsar». Ce comportement bizarre vient d'abord du fait que l'étoile à neutrons ne rayonne pas sur toute sa surface. La lumière (qui est surtout de nature radio) émerge en deux minces faisceaux semblables à celui d'un phare. De plus, l'étoile à neutrons tourne très vite sur elle-même, d'où l'impression qu'elle s'allume et s'éteint chaque fois qu'un faisceau lumineux balaie la Terre (fig. 47). Le pulsar va jouer son rôle de phare céleste pendant plusieurs millions d'années. Sa réserve d'énergie, emmagasinée lors de l'effondrement, va s'épuiser. Il tournera de moins en moins vite et finira par ne plus rayonner. Enveloppé du silence des morts, ce cadavre stellaire ne pourra plus être vu ni entendu. Une étoile sur mille dans la Voie lactée finit sa vie en pulsar. Nous en arrivons enfin à la plus définitive des morts stellaires. C'est le sort que subit une étoile plus massive que 5 Soleils environ. Une très grande masse provoque un effondrement extrêmement violent. Cette fois, non seulement les électrons, mais également les neutrons, sont pris au dépourvu. Ils n'ont pas le temps de s'organiser pour résister à la gravité. Celle-ci ne peut plus être arrêtée. Elle comprime la matière au coeur de l'étoile en un volume si petit que le champ de gravité qui en résulte est énorme. Le coeur de l'étoile est devenu trou noir. Comme dans le cas précédent, la violence de l'effondrement produit une explosion gigantesque qui projette les couches supérieures de l'étoile dans l'espace : la naissance du trou noir est aussi saluée par la déflagration d'une supernova. Cette fois, l'étoile morte ne laissera même pas de cadavre visible. Elle se manifestera désormais, nous l'avons vu, par les effets gravitationnels qu'elle exerce sur tout objet qui passe à proximité. Elle ralentira le temps. Elle transformera les astronautes trop hardis en spaghetti et les broiera. Pour un observateur terrestre, le trou noir sera très difficile à détecter. Sauf, nous l'avons vu, s'il fait partie d'une paire dont l'autre membre serait une étoile encore en vie. Le trou noir attirera alors l'atmosphère gazeuse de l'étoile visible vers lui. Les atomes de gaz dans cette atmosphère émettront de la lumière X en tombant vers le trou noir, et trahiront ainsi la présence de ce dernier. On pense qu'un trou noir existe dans la direction de la constellation du Cygne, à l'emplacement d'une source X très brillante (voir figure 5). Dans la Voie Lactée, les trous noirs sont beaucoup moins nombreux que les naines blanches et les pulsars: les étoiles massives sont minoritaires dans la population galactique |
![]() 1: Bức xạ vô tuyến; 2: pulsar bán kính 10 km; 3: Trái đất Pulsar Pulsar là một sao neutron có bán kính 10 km quay quanh chính nó rất nhanh và hoạt động như một đèn pha vũ trụ. Pulsar không phát xạ tất cả bề mặt của nó, mà phát ra hai chùm sáng (nhất là ánh sáng có tính vô tuyến). Một quan sát viên nơi trái đất sẽ nhận tín hiệu vô tuyến từ pulsar mỗi khi chùm tia quét qua trái Đất. Các tín hiệu phát ra liên tục với nhau, cách nhau bởi khoảng thời gian bằng thời gian mà ngôi sao quay một vòng xung quanh chính nó. Pulsar nhanh nhất được phát hiện, gởi cho chúng ta cứ 1,6 phần ngàn giây là một tín hiệu , nghĩa là nó quay 600 vòng một giây quanh chính nó. Một con quay thực sự của bầu trời! Fig. 4 Le pulsar. Un pulsar est une étoile à neutrons de 10 kilomètres de rayon qui tourne très vite sur elle-même et qui se comporte comme un phare cosmique. Le pulsar ne rayonne pas sur toute sa surface, mais en deux faisceaux lumineux (la lumière est surtout de nature radio). Un observateur terrestre recevra un signal radio du pulsar chaque fois qu'un faisceau balaie la Terre. Les signaux se succèdent, séparés par un intervalle de temps égal au temps mis par l'étoile pour faire un tour complet sur ellemême. Le pulsar le plus rapide qui ait été détecté nous envoie des signaux tous les 1,6 millième de seconde, c'est-à-dire qu'il fait 600 tours sur luimême en une seconde. Une vraie toupie céleste!
1: Lớp vỏ bao của ngôi sao nhìn thấy được; 2: Vật chất của sao rơi vô lỗ đen; 3 Lỗ đen; 4: đĩa quanh lỗ đen phát ra ánh sáng X; 5: chuyển động quỹ đạo H. 5 Lỗ đen quay theo quỹ đạo quanh sao siêu lớn, lôi cuốn bằng lực hấp dẫn lớp vỏ bao của sao này. Vật chất sao này khi rơi vô lỗ đen và đồng thời tạo thành đĩa khí xung quanh nó, nóng lên và phát ra tia X, tiết lộ cho ta biết sự có mặt của lỗ den
|
Viết ngày 05/05/05
Bổ sung thêm phim ngày 14/02/2007
© http://vietsciences.org và http://vietsciences.free.fr Trịnh Xuân Thuận , Võ Thị Diệu Hằng chuyển ngữ