Quan niệm phương Đông về Vũ trụ ở
thời thượng cổ và trung cổ
Vào cuối thế kỷ
thứ 5, trong bộ Thiên Văn Lục có phân biệt ba trường
phái về quan niệm cấu trúc Vũ trụ. Đó là thuyết Cái
thiên (Trời có cái nắp đậy), Tuyên dạ (đêm tối lan
tràn khắp nơi, không trung vô tận) và Hồn Thiên
(thiên cấu mênh mông bao gồm cả Trái đất). Các nhà
hiền triết muốn mở đường "Thiên Lô" cho Hoàng Đế lên
trời nên những lý thuyết này, tuy có mục tiêu
khoa học để tìm hiểu Vũ trụ, nhưng vẫn chịu ảnh
hưởng của tư tưởng siêu hình và chiêm tinh học.
Lý thuyết
Cái Thiên, cổ nhất, hình dung vòm trời
như một cái nắp hình bán cầu và Trái đất như một cái
bát úp ngược cùng một trung tâm. Phía dưới chân Trái
đất không phải hình tròn mà vuông như một bàn
cờ, có lẽ là do quan niệm có bốn phương trời (đông,
tây, nam, bắc). Mưa từ vòm trời, nơi có sao,
rơi xuống bốn góc Trái đất thành bốn bể. Hiện nay ta
biết là những hạt nước mưa đọng trên tầng khí
quyển Trái đất, chứ không phải từ Vũ trụ rơi xuống.
vòm trời quay lôi theo Mặt trăng cùng Mặt trời.
Hai thiên thể này chuyển động từ từ n,gược chiều với
vòm trời. Trong "khung (lớn) Thiên Luận" viết ở thế
kỷ 3 ví vòm trời như cái màng trứng trong có "nguyên
khí"nên không chìm xuống mặt bốn bể. Mặt trời giống
một ngọn đèn chuyển động trên vòm trời và chỉ chiếu
sáng từng khu vực một. Tam Diệu tức là Mặt
trời, Mặt trăng và sao khi ẩn khi hiện thành
có đêm ngày. thật ra thuyết "Cái Thiên" có hai giai
đoạn, thời Đông Chu (thế kỷ 5 TCN) thuyết "Thiên Viên
Địa Phương" (Trời tròn đất vuông) cho Trái đất
đứng yên, Mặt trăng, Mặt trời và tinh tú chuyển vận
trên bầu trời. Sang đến thời Chiến Quốc thuyết này
mới phát triển thành thuyết cho vòm trời hình bán
cầu, Trái đất như một cái bát. Từ giai đoạn
một cho Trái đất phẳng như bàn cờ đến giai đoạn hai
cho Trái đất gồm đường cung tròn là một bước tiến
của thuyết "Cái Thiên"
Thuyết "Hồn
thiên" của Trương Hành (78-139) thời Đông
Hán, ví vòm trời như một quả trứng gà nhưng hình
tròn, ở giữa là lòng đỏ tượng trưng Trái đất. Vòm
trời có "khí" ở trong và chân trời có nước, Trái đất
nổi trên mặt nước. Trên trời có ba "thần" có lẽ
là Mặt trời, Mặt trăng và sao, còn Trái đất có ba
"hình" có thể thổ, thủy và khí. Thần và hình đều có
thể quan sát thấy được. Mặt trời như trên một
bánh xe quay không ngừng. Khoảng không gian ở ngoài
vòm trời không giới hạn (vô cực, vô cùng), được gọi
là "Vũ trụ" và coi là bí hiểm. Như vậy, thuyết Hồn
Thiên đã hình dung được là ngoài phạm vi Mặt trời,
Mặt trăng và sao còn có Vũ trụ mông mênh nhưng chưa
thăm dò được.
Thuyết
Tuyên Dạ cho rằng vòm trời trống rỗng (vô
chất) xa lắc và rộng mênh mông (vô cực). Mặt
trời, Mặt trăng và sao là nơi đọng tích (tích khí)
bay lên không trung. Bảy tinh tú (Thất diệu) tức là
Mặt trời, Mặt trăng và năm hành tinh trong vòm trời
không dính vào vòm trời nhưng chuyển động tự do, đi
đi lại lại. Năm hành tinh này là năm hành tinh nhìn
thấy được bằng mắt trần, tức là Thủy, Kim, Hỏa, Mộc
và Thổ. Sao Bắc Đẩu bao giờ cũng đứng một chỗ
(vì nằm gần trục quay của vòm trời). Quan niệm không
trung vô tận phải chăng có mối liên hệ với tư tưởng
"hư vô" của đạo Lão và "hư không" của đạo Phật. Trời
và Trái đất tuy rộng lớn, nhưng chỉ như hột gạo so
với hư không trong đó có thể có những Trời và Trái
đất khác.
Từ thế kỷ thứ 6, quan niệm hai bán cầu có khí, tượng
trưng Trời và Đất của thuyết "Hồn thiên" được chấp
nhận. Tuy nhiên, đã có câu hỏi được đặt ra là nếu
chỉ nhìn thấy nửa quả cầu, tức là chỉ nhìn
thấy một nửa sự thật. Qua những thế kỷ sau, mô hình
Vũ trụ dần dần được cải tiến. Chẳng hạn, sao
và hành tinh không dính vào vòm trời, nhưng được một
luồng "gió cứng" (cương phong) nâng lên, như
khí nén của động cơ phản lực. Trên trời có
chín tầng khí có áp lực và tốc độ khác nhau
tương tự như cửu trùng. Sự vận hành tuần hoàn của
Trái đất và thủy triều đều do lực âm dương quy định.
Mặt trời là Thái Dương (thái là lớn)
và các ngôi sao khác là Tiểu Dương (tiểu là nhỏ).
Còn Mặt trăng là Thái âm và các hành tinh khác
là Tiểu Âm. Trái đất cũng thuộc về loại âm. Hiện nay
ta biết rằng Mặt trăng là vệ tinh
của Trái đất. Mặt trời à sao rất nóng và tự phát xạ
vì có năng lượng tạo ra bởi những phản ứng nhiệt
hạch trong lòng chúng. Trá lại Trái đất, Mặt trăng
và các hành tinh vì lạnh nên không tự phát xạ mà chỉ
phản xạ ánh sáng Mặt trời chiếu tới chúng. Cho
nên xếp Mặt trời và sao vào loại dương, còn Trái
đất, Mặt trăng và các hành tinh vào loại âm có
phần đúng. Chính Mặt trời là một ngôi sao như hàng
chục tỉ sao khác trong dải Ngân hà và Mặt trăng là
một trong những hành tinh của Hệ mặt trời. Vì Mặt
trời và Mặt trăng gần Trái đất nên trông to lớn và
được gọi là Thái Dương và Thái Âm.
Quá trình tiến hóa của ngành thiên
văn Trung Quốc qua nhiều thời đại đã chịu ảnh hưởng
của tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử (thế kỷ thứ 6
TCN) và Phật giáo. Theo Nho giáo, Vũ trụ lúc đầu
mông lung mờ mịt trong một trạng thái
gọi là "Thái Cực" và biến hóa ra "âm" và "dương".
Hai thực thể âm dương tuy tương khắc với nhau, nhưng
được phối hợp theo phép điều hòa và tương đối, để
tạo ra khí chất tức là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (ngũ
hành). Đạo sống của con người trong xã hội
cũng dựa vào thực thể âm dương trong Vũ trụ. Ta có
thể ví thực thể trừu tượng âm dương như hai loại hạt
cơ bản trong vật lý hiện đại, hạt và phân hạt có khả
năng tự hủy khi chạm nhau. Thuyết Nho giáo tuy
có phần duy lý nhưng không đặc biệt lưu tâm
đến thiên nhiên. Học thuyết đạo Lão thì đề cập nhiều
đến thiên nhiên, nhưng lại thiếu duy lý. Trang
tử (thế kỷ thứ 4 TCN) tự hỏi tại sao Trời lại quay
mà Trái đất lại đứng? Mặt trời và Mặt trăng lại thay
nhau hiện lên trên trời?
Những tư tưởng ở thời thượng cổ về
Vũ trụ, tuy có tính chất thần bí và siêu hình, nhưng
đôi khi cũng phản ánh những sự kiện tìm thấy
bằng những lý luận khoa học hiện đại. Qua những
phương tiện quan sát và tính toán, vật lý thiên văn
hiện đại cho rằng Vũ trụ được tạo ra cách đây 15 tỉ
năm do một Vụ Nổ Nguyên Thủy Vĩ Đại gọi là Big Bang.
Vũ trụ nguyên thủy chỉ là một đám sương mù mờ
ảo (xem chi tiết ở mục sau) hình dung bởi học thuyết
Nho giáo. Vương Sung, một nhà triết học nổi tiếng
triều Đông Hán cho rằng Trái đất được hình thành do
sự đông đặc của một đám khí. Giả thuyết này không
được phát triển vì thiếu cơ sở vật lý và toán học.
Theo những thuyết nghiên cứu hiện đại, những thiên
thể như sao và hành tinh được hình thành từ những
dám khí khổng lồ bị co và đông lại vì sức hút
của trường hấp dẫn trong đám khí. Theo luật luân hồi
của đạo Phật, tạo hóa xoay vần như một bánh xe.
Những trạng thái hỗn độn của vạn vật có thể
tái diễn sau những tạng thái bình thường. Lý thuyết
nghiên cứu cấu trúc và sự tiến hóa của Vũ trụ (Vũ
trụ luận) dựa trên cơ sở khoa học hiện nay dã đề
xuất vũ trụ cũng có thể trải qua những giai đoạn
co giãn tuần hoàn và Vũ trụ nguyên thủy ở trong một
trạng thái hỗn độn.
Tóm lại, các nhà thiên văn học
phương Đông thời xưa không có một mô hình chính xác
về Vũ trụ và quỹ đạo của các hành tinh trong
Hệ mặt trời, vì ngành vật lý và toán học, đặc biệt
là hình học chưa được phát triển. Tuy nhiên,
quan niệm của họ về Vũ trụ có khả năng thay đổi
tương đối đúng với thực tế. Nhờ sự phát triển của
khoa học qua các thời đại, hiện nay chúng ta biết
rằng Trái đất là một trong 9 hành tinh trong Hệ mặt
trời. Trái đất quay chung quanh Mặt trời với
chu kỳ khoảng 365 ngày theo một quỹ đạo hình ellip
hầu như tròn mà Mặt trời ở một tiêu điểm. Mặt trang
là một vệ tinh quay chung quanh Trái đất. Các ngôi
sao không dính trên vòm trời mà xa trái dất ở những
khoảng cách khác nhau. vũ trụ có hàng trăm tỉ thiên
hà, mỗi thiên hà có hàng chục tỉ ngôi sao như mặt
trời. Mỗi sao có hàng chục hành tinh. Dải Ngân hà là
một trong những thiên hà, chỉ khác là trong
Ngân hà có hệ mặt trời và có trái đất chúng ta ở. Vì
vậy Ngân hà còn được gọi là "thiên hà của chúng ta".
Trung tâm Ngân hà cách Trái đất khoảng 30 nghìn năm
ánh sáng. Trái đất quay chung quanh Mặt trời
với tố độ 30 km/s và quay cùng tất cả Hệ mặt trời
chung quanh trung tâm Ngân hà với tốc độ 250 km/s.
Với tốc độ lớn, nhưng vì Ngân hà vĩ đại, nên trái
đất phải để 200 triệu năm mới quay hết một vòng
chung quanh tâm Ngân hà.
Trích từ quyển
Vũ Trụ phòng thí nghiệm thiên nhiên
vĩ đại của nhà thiên văn Nguyễn Quang Riệu |