Từ thời xa xưa, thiên văn học ở Viễn Đông đã chịu ảnh hưởng
sâu sắc của ba trường phái triết học và tôn giáo tức là Khổng giáo,
Lão giáo và Phật giáo. Theo những quan điểm này, thiên văn học mang
tính chất huyền bí và siêu hình. Tất cả học thuyết trên đều có một
mẫu số chung (điểm cơ bản chung) là Âm và Dương. Vũ trụ bị chi phối
bởi hai thực thể này đối địch nhau, nhưng Âm, Dương
không những không tự hủy với nhau, mà còn chung sống một cách
hài hòa để điều hành toàn thể Vũ trụ, kể cả vận mệnh của con người
cũng được coi là một vũ trụ nhỏ. Sự xuất hiện của những hiện
tượng thiên nhiên kỳ lạ báo hiệu những điềm xấu như sao chổi, nhật
thực và nguyệt thực đều do sự mất thăng bằng của hai lực Âm,
Dương.
Theo giáo huấn của luân lý đạo Khổng, đã là một công dân trung thành
nên nhà thiên văn phải phục vụ "Thiên tử", nhà vua hùng
mạnh. Như ta biết, ngôi sao Bắc đẩu tượng trưng Thiên tử. Theo định
nghĩa, ngôi sao gần thiên cực Bắc nhất được chọn là sao Bắc đẩu.
Thiên cực Bắc là một điểm trên vòm trời Bắc bán cầu, mà các vì sao
đều quay xung quanh. Bởi vì Trái đất tự quay tròn và lắc lư như con
quay, nên Thiên cực không đứng một chỗ nhưng chuyển động trên một
quỹ đạo hình tròn trên vòm trời và quay hết mỗi vòng trong 26 nghìn
năm (Hình 1).
Do đó một
ngôi sao trước kia gần thiên cực nhất, nay lại xa thiên cực hơn một ngôi
sao khác. Ngôi sao thứ hai này lại trở thành sao Bắc đẩu. Thiên cực chuyển
động rất chậm trên một quỹ đạo vòng tròn, nên một ngôi sao được giữ làm sao
Bắc đẩu trong nhiều thế kỷ. Hiện nay ngôi sao
Alpha Tiểu Hùng,
ngôi sáng nhất trong chòm "Tiểu Hùng", nằm gần thiên cực nhất. Alpha Tiểu
Hùng là
sao Bắc đẩu
(北 抖 星
, Bắc
Đẩu Tinh
hay cũng còn gọi là Sao Bắc Cực - Bắc Cực Tinh
北 極 星)
của thời đại hiện tại.
Các nhà
thiên văn Trung Quốc đời xưa phân ra một vùng có bán kính chừng 20 độ xung
quanh sao Bắc đẩu hiện tại (sao số 1 trong Hình 1), bao quanh
bởi hai hàng sao của chòm Thiên Long [tọa] (天
龍
座 ,
Rồng trời), Tiên
Vương [tọa]
(仙
王
座 ,
Vua),
Tiên Hậu
[tọa]
(仙
后
座 ,
Hoàng hậu), Đại Hùng
[tọa]
(大
熊
座
,
Gấu lớn) và
Lộc
Cẩu
[tọa] (
鹿
狗
座
,
Hươu sao).
Bên trong hai bức "thành" này, ngay cạnh sao Bắc đẩu
(sao số 1) có một số sao được đặt tên những nhân vật của hoàng thất. Ngôi
sao Bêta của chòm Tiểu Hùng
[tọa] (
小
熊
座
, Gấu
nhỏ, sao
số 3), sáng thứ nhì trong chòm, có lẽ là sao Bắc đẩu của thiên niên kỷ thứ
nhất trước CN và được đặt tên là sao
"Thiên Đế"
(天
帝).
Ở sườn bên trái có "Thái
Tử"
(太
子 sao
số 2, gamma Tiểu Hùng) và sườn bên phải có "Thứ
Tử"
(庶
子 sao
số 4) và "Hậu
Cung"
(后
宮
,
cung Hoàng hậu, sao số 5). Một ngôi sao khác thường nữa (sao số 6) gọi là
Thiên Xu
(天 樞,
chỗ
trọng yếu)
nằm trên quỹ đạo của thiên cực, ngôi sao này là sao Bắc đẩu thời nhà Hán
(thế kỷ 2 sau CN). Xung quanh có bốn ngôi sao nhỏ gọi là "Tứ
Phụ"
(四
輔,
phụ trợ)
trông giống như cái ngai, có thể ngôi sao Bắc đẩu này
tượng trưng các vua Hán ngày xưa. Còn ngôi sao Bắc đầu hiện tại (sao số 1),
Alpha
Tiểu Hùng,
được gọi là "Thiên
Hoàng Đại Đế"
(天
皇
大
帝).
Vùng xung quanh Bắc cực đúng được gọi là hình ảnh của cung điện "Tử
Cấm Thành"
(紫
禁 城
hoặc Cổ Cung
故
宮)
của nhà
vua xây trên Trái đất.
|
|
L'astronomie dans les temps anciens en Extrême-Orient était
profondément marquée par trois tendances philosophico-religieuses,
le Confucianisme, le Taoisme et le Bouddhisme. Elle avait, de ce
point de vue, un caractère mystique et métaphysique. Le Yin et le
Yang constituent le dénominateur commun de ces doctrines. L'Univers
est dominé par ces deux entités antagonistes, mais loin de se
détruire mutuellement, le Yin et le Yang coexistent d'une manière
harmonieuse pour gérer tout I'Univers, y compris la destinée de
l'homme considéré lui-même comme un petit univers. L'apparition des
phénomènes naturels insolites de mauvais augure comme les comètes et
les éclipses serait dûe à un déséquilibre entre ces deux forces.
Selon les préceptes de la morale confucéenne, l'astronome en tant
que loyal citoyen, doit être au service du souverain tout puissant,
le "Fils du Ciel". Celui-ci, on le sait, est représenté par l'Étoile
Polaire. Par définition, l'étoile qui se trouve la plus proche du
pôle Nord céleste est choisie comme Étoile Polaire. Le pôIe Nord
céleste est un point dans le ciel boréal autour duquel tournent les
étoiles. Comme la Terre tourne autour d'elle-même tout en oscillant
à la manière d'une toupie, le pôle céleste n'est pas fixe mais se
déplace dans le ciel en décrivant une trajectoire circulaire en 26
mille ans (Fig. 1). Il en résulte qu'une étoile qui était auparavant
la plus proche du pôle s'en écarte tandis qu'une autre s'en
rapproche. Cette dernière devient alors à son tour l'Étoile Polaire.
Comme le mouvement de rotation du pôle céleste est très lent, une
étoile conserve son rôle d'Étoile Polaire pendant des siècles. Il se
trouve qu'Alpha Ursa Minor, l'étoile la plus brillante de la
constellation de la "Petite Ourse", se situe actuellement le plus
près du pôle céleste. Elle est l'Étoile Polaire de notre époque.
Dans une région d'une vingtaine de degrés de rayon autour de
l'Étoile Polaire actuelle (étoile No 1 de la Figure
1), les astronomes chinois des temps anciens
délimitaient une zône entourée par deux rangées d'étoiles
appartenant aux constellations du Dragon, de Céphée, de Cassiopée,
de la Grande Ourse et de la Girafe. A l'intérieur de ces deux
"remparts" tout près de l'Étoile Polaire
(étoile No 1) se trouvent des étoiles baptisées de noms des
personnalités de la famille impériale. L'étoile Bêta de la Petite
Ourse (étoile No 3) qui est la deuxième étoile la plus brillante de
cette constellation, était probablement considérée comme Étoile
Polaire du premier millénaire avant notre ère. Baptisée "Empereur
Céleste", elle est flanquée à sa gauche du "Prince héritier" (étoile
No 2 appelée Gamma de la Petite Ourse) et à sa droite du "Deuxième
Prince" (étoile N° 4) et de "l'Impératrice" (étoile N° 5). Une autre
étoile remarquable (étoile No 6) appelée "Pivot Céleste" se trouve
sur la trajectoire du pôle céleste. Il s'agit de I'Étoile Polaire de
l'époque de la dynastie des Han (2ème siècle av. J.-C.).
Entourée par quatre autres petites étoiles appelées les "Quatre
Soutiens" dessinant une sorte de trône, cette Étoile Polaire d'antan
représentait probablement les empereurs de cette dynastie. Quant à
I'Etoile Polaire actuelle (étoile No 1), Alpha Ursa Minor, elle
porte le nom de "Grand Empereur Céleste". Cette région près du pôle
Nord céleste est considérée, sans aucun doute, comme une réplique de
I'enceinte du palais impérial construit sur terre, la "Cité
Interdite". |
 |
Hình 1:
Sao và chòm sao xung quanh thiên cực Bắc. Các nhà thiên văn
Trung Quốc quan niệm vùng trời này theo hình ảnh của Tử Cấm
Thành (Cung điện nhà vua) xây tại Trung Quốc. Có hai hàng rào
sao như hai bức thành định ranh giới của "Cung điện", trong
đó các nhà thiên văn Trung Quốc lấy tên Hoàng đế (sao số 1,
3 và 6), Hoàng hậu (sao số 5) và
Hoàng tử (sao số 2, và 4) để đặt tên cho một số sao.
Figure 1:
Etoiles et constellations autour du
pôle Nord céleste. Les astronomes chinois concevaient cette
région du ciel à l'image de la Cité Interdite (Palais
lmpérial) construite dans l'Empire du Milieu (Chine). A
l'intérieur de "l'Enceinte lmpériale" délimitée par deux
remparts d'étoiles, les astronomes chinois ont attribué à
certaines étoiles les noms des Empereurs (étoiles no 1,3 et
6), de l'lmpératrice (étoile no 5) et des Princes (étoiles
no 2 et 4).
Ở các nước Viễn Đông, thiên văn học được coi là một ngành
khoa học chính thức, nên các nhà thiên văn có nhiệm vụ theo
dõi cẩn thận bất cứ hiện tượng lạ thường nào có thể có ảnh
hưởng trực tiếp đến số mệnh của công dân. Họ thường được đón
tiếp tại cung điện nhà vua. Vua Nghiêu (thế kỷ 7-8 trước CN)
nổi tiếng là uyên thâm, sau khi hội đàm với sáu anh em thiên
văn kiêm nhà ảo thuật họ Hi và Hòa, bèn gửi họ đi khắp nước
đến bốn phương trời, nhằm thay đổi đường đi của Mặt trời.
Vua nghĩ làm như thế có thể thay đổi được nhịp các mùa và để
tránh mùa đông lạnh lẽo và mùa
hạ nóng nực kéo dài quá lâu.
Ở thời xa xưa đó, các nhà thiên văn quan niệm Trái đất vuông
như bàn cờ mà những đỉnh của hình vuông tượng trưng bốn
phương chính của la bàn.
Ngoài những giai đoạn huyền thoại, các sự kiện thiên văn
thường được ghi lại khá chính xác. Tài liệu có từ thế kỷ 5
trước CN đến thế kỷ 10 sau CN đã cung cấp nhiều thông tin,
đôi khi độc nhất, về sự xuất hiện theo chu kỳ của những sao
chổi và về những vụ nổ sao mới và sao siêu mới. Sao chổi
nhìn thấy năm 240 trước CN, triều đại của ông vua nổi
tiếng Tần Thủy Hoàng, người chống Nho giáo và đốt kho tàng
quý báu sách để lại bởi những triều đại trước, chính là sao
chổi Halley xuất hiện với một chu kỳ nhất định. Từ đó sao
chổi này được ghi chép đều 76 năm một lần trong sách sử
thiên văn Trung Quốc. Vết đen trên bề mặt Mặt trời thường
quan sát thấy trong thời kỳ Mặt trời hoạt động mạnh đã
được phát hiện ở Trung Quốc trước khi nhà thiên văn Galilée
nhìn thấy những vết này trong kính thiên văn năm 1610.
Những hiện tượng chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn ngủi
không gợi sự chú ý của các người châu Âu khi họ quan sát
bầu trời, vì ở thời Trung cổ, họ quan niệm một Vũ trụ hoàn
hảo và bất di bất dịch.
Sự quan sát những sự kiện không tồn tại lâu trên trời, thuật
lại từ hàng nghìn năm về trước trong các sách sử thiên văn
phương Tây cũng như phương Đông, đã giúp các nhà thiên văn
ngày nay nhận ra những sao chổi xuất hiện theo chu kỳ và
những vết tích của những vụ sao nổ vĩ dại. Nhờ những kết quả
quan sát đó mà đến năm 1919, nhà thiên văn Thụy Điển
Lundmark đã phát hiện được "Tinh vân con Cua" là tàn dư của
sao siêu mới quan sát thấy bằng mắt thường năm 1054 bởi các
nhà thiên văn Trung Quốc và Nhật Bản. Sự tìm kiếm những ngôi
sao nổ và phát sinh ra những tàn dư sao siêu mới đã đóng
góp rất nhiều vào sự nghiên cứu quá trình tiến hóa của các
ngôi sao, một hướng nghiên cứu đang phát triển mạnh trong
ngành thiên văn hiện đại. Danh sách của một số sự kiện xảy
ra đột ngột và không tồn tại lâu trên trời đã được lập ra
từ những cuốn sử biên niên Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và
Việt Nam để tìm kiếm các tàn dư của những vụ sao nổ.
Ngành thiên văn học phương Đông đã sớm trải qua một thời
vinh quang, nhờ ưu thế của ngành khoa học chuyên quan sát
những hiện tượng trên trời coi như có ảnh hưởng đến vận mệnh
con người. Sự hành đạo của nhân dân theo học thuyết Khổng
giáo, Lão giáo và Phật giáo đã đóng góp nhiều vào thành tựu
tốt đẹp này. Sau một thời kỳ huy hoàng lâu dài, đến thế kỷ
16-17 thiên văn học phương Đông bắt đầu bị thiên văn học
phương Tây vượt qua. Hồi đó, ngành thiên văn tiến bộ rất
nhiều nhờ có sự xuất hiện của các nhà thiên văn và toán học
xuất sắc như Copernic, Galilée, Kepler, Newton, cùng sự phát
minh ra kính thiên văn. Thiên văn học phương Đông chủ yếu
hướng về quan sát và thiếu tính chặt chẽ vì không dựa trên
một cơ sở toán học vững chắc. Khổng giáo logic về mặt tư duy
nhưng quan tâm đến việc xây dựng một xã hội gương mẫu, chú ý
nhiều đến luân lý và xã hội hơn đến khoa học thuần túy. Đạo
Lão xét các vấn đề có tính khoa học theo kiểu những nhà hóa
học thời Trung cổ thực hành thuật chế kim. Phật giáo coi cõi
đời chỉ là một giai đoạn trong quá trình luân hồi tuân theo
luật khắt khe của "nghiệp" quyết định cho sự đầu thai nối
tiếp nhau. Phủ nhận một thế giới mà tất cả chỉ là tạm thời
(vô thường) có thể là một yếu tố cản trở phần nào sự phát
triển khoa học.
|
|
Comme I'astronomie a longtemps été considérée en Extrême-
Orient comme une science officielle, les astronomes avaient
pour tâche de surveiller attentivement tout phénomène
insolite sensé avoir une influence directe sur le sort des
citoyens. Ils étaient fréquemment reçus à la Cour impériale.
L'empereur Nghiêu (7ème - 6ème siècle
av. J.-C.) connu pour sa légendaire sagesse, lors d'une
consultation des six frères "astronomes-magiciens" des
familles Hi et Hoa, les envoya aux quatre coins de
l'empire
dans la direction des points cardinaux, afin de changer la
course du Soleil. Il pensait ainsi pouvoir modifier le
rythme des saisons et éviter que l'hiver glacial et l'été
torride ne durent trop longtemps. A ces lointaines époques,
les astronomes concevaient une Terre carrée, à l'image d'un
échiquier et dont les sommets représentent les quatre points
cardinaux.
Au delà de ces périodes de légende, les événements
astronomiques furent généralement rapportés de façon assez
précise. Des documents datant du 5ème siècle (av.
J.-C.) au 10ème siècle de notre ère, offrent de
précieux renseignements, parfois uniques, concernant les
apparitions périodiques de certaines comètes et les
explosions de nova et de supernova. La comète observée en
l'an 240 (av. J.-C.) du règne de l'illustre empereur Qin Shi
Huang (259- 210 av. JC.) hostile au Confucianisme et auteur
de l'autodafé de précieux livres des dynasties précédentes,
n'est autre que la comète périodique de Halley. Depuis,
celle-ci fut régulièrement enregistrée tous les 76 ans dans
les annales astronomiques chinoises. Les taches solaires,
qui apparaissent le plus souvent lors des périodes d'intense
activité du Soleil, avaient été découvertes en Chine bien
avant que l'astronome Galilée ne les vît en 1610 dans son
télescope. Ces phénomènes célestes transitoires n'attiraient
guère l'attention des observateurs occidentaux qui, durant
tout le Moyen Age concevaient un Univers parfait et
irnmuable.
Les observations de nombreux événements célestes
transitoires relatés depuis des millénaires dans les annales
astronomiques, aussi bien occidentales qu'orientales, ont
facilité la tâche des astronomes d'aujourd'hui dans
l'identification des comètes périodiques et des traces
laissées par de gigantesques explosions d'étoile. C'est
ainsi que la céIèbre "Nébuleuse du Crabe", fut identifiée en
1919 par l'astronome suédois Lundmark comme étant le vestige
de la supernova observée à l'oeil nu en l'an 1054 par des
astronomes de Chine et du Japon. L'identification des
étoiles qui avaient engendré les vestiges de supernova a
grandement contribué à l'étude de l'évolution des étoiles,
une branche très active de l'astronomie moderne. Une liste
d'événements célestes inattendus et transitoires compilée à
partir des chroniques chinoises, coréennes, japonaises et
vietnamiennes fut établie pour la recherche des vestiges
d'explosions d'étoile.
L'astronomie orientale a eu très tôt son heure de gloire,
grâce à la suprématie donnée à cette science consacrée à
l'observation des phénomènes célestes considérés comme ayant
une influence capitale sur la destinée des hommes. La
pratique des doctrines confucéenne, taoïste et bouddhiste a
largement contribué à ce succès. Après une très longue
période faste, l'astronomie orientale a commencé à être
dépassée par l'astronomie occidentale à partir du 16ème-17ème
siècle. L'existence de brillants astronomes et
mathématiciens comme Copernic, Galilée, Kepler et Newton,
ainsi que l'invention du télescope ont beaucoup fait
progresser l'astronomie à cette époque. L'astronomie
orientale essentiellement observationnelle, a souffert d'un
manque de rigueur dû à l'absence d'un fondement mathématique
solide. Le Confucianisme qui est logique dans sa pensée mais
soucieux de bâtir une société modèle, s'intéresse davantage
à la morale et à la sociologie qu'à la science proprement
dite. Le Taoisme traite des problèmes à caractère
scientifique plutôt à la manière de l'alchimie. Le
Bouddhisme considère que la vie terrestre n'est qu'une étape
dans le processus de transmigration régi par les règles
implacables du "Karma" qui conditionne les réincarnations
successives. L'inacceptation d'un monde où tout ne serait
qu'"impermanent" pourrait constituer, dans une certaine
mesure, un facteur inhibiteur pour le développement
scientifique. |
|
|