1- Nguyên do
thám hiểm.
Trong lịch sử của thế giới tây
phuơng và trong hai thế kỷ giữa các năm 1420 và
1620, người châu
Âu đã mạo hiểm, vượt biển để đi tìm
hiểu các miền đất xa lạ. Sự khám phá của họ đã đưa
đến việc thuộc địa hóa và định cư tại các vùng đất
mới, đã mang lại cho họ các sản phẩm mới, tài sản
mới, cơ hội mới, vấn đề mới và cách suy nghĩ mới.
Cũng do các công cuộc thám hiểm và khám phá của
người châu Âu này mà các quốc gia mới được thành
lập, chẳng hạn quốc gia Hoa Kỳ.
Các
nhà thám hiểm với tên họ quen thuộc với chúng ta như
Vasco da Gama, Christopher Columbus, Ferdinand
Magellan... đã ra đi vì các mục đích nào, bằng các
phương tiện nào và đã đạt được các thành quả nào?
Tại sao các công cuộc thám hiểm và khám phá lại bắt
đầu do các quốc gia Tây âu, mà không phải do các
nước đã có một nền văn minh tương đối phát triển như
Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản tại châu Á, do các nước
theo đạo Hồi tại châu Phi và miền Trung Đông, do các
xứ Aztecs, Inca và Maya của miền Trung Mỹ? Vào thời
kỳ đó, các miền đất kể trên đã là các lãnh thổ rộng
lớn hơn, có các trình độ văn minh cao hơn các quốc
gia Tây Âu. Các quốc gia như Trung Hoa đã có dân số
phát triển, có nền văn minh riêng với khoa học, kỹ
thuật và văn chương, họ có cả các cuốn sách và bản
đồ mô tả về lãnh thổ của họ.
Vào thời kỳ Đen Tối (the Dark
Ages), những người
Scandinavian đã tới được miền Bắc
Mỹ trước
Christopher Columbus rồi trong thế kỷ 13,
đã có những
nhà thám hiểm như Giovanni de Plano
Carpini, Willen van Rujsbroek và
Marco Polo... Thời
đại thám hiểm liên quan tới thời kỳ Phục Hưng (the
Renaissance) theo đó con người bắt đầu tìm hiểu các
hiện tượng thiên nhiên, xét lại các thành quả cũ đã
đạt được với sự trong sáng mới, cách khảo cứu và suy
luận mới . . .
Vào đầu thế kỷ 15, phương pháp
thám hiểm hàng hải bắt đầu được tổ chức theo hệ
thống, nhờ đó các kỹ thuật đi biển được cải tiến.
Việc thám hiểm và khám phá được các vua chúa và các
nhà tài chính chủ trương, khuyến khích. Họ hiểu rằng
các con tầu biển tốt hơn, cùng với các dụng dụ đo
lường chính xác hơn, các phương pháp vẽ bản đồ và kỹ
thuật đi biển mới... đã khiến cho các hải trình xa
hơn, khó khăn hơn được thực hiện. Vào thời kỳ đó,
người châu Au đã biết rằng có các quốc gia như Trung
Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ..., việc tìm cách tới được
những quốc gia này sẽ mang lại lợi ích nhờ thương
mại. Các quốc gia dẫn đầu trong việc thám hiểm và
khám phá là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp và
Hòa Lan. Trí tưởng tượng phong phú của người châu
Âu, các nhu cầu đặc biệt của thời kỳ đó đã khiến cho
họ đi tìm hiểu thế giới bên ngoài. Châu
Âu của thời
kỳ Phục Hưng rất cần các kim loại quý và các thứ
hương liệu (spices).
Vào thời Trung Cổ (the Middle
Ages), các thương gia của châu Âu đã trao đổi để có
vàng, lụa và các loại hương liệu của miền Viễn Đông
nhưng sang thế kỷ 15, các chính quyền của châu
Âu đã
tham gia vào việc khám phá, không phải do lòng tham
mà do nhu cầu. Châu Âu vào thời kỳ này đã thiếu kim
loại quý để đúc tiền. Các mỏ vàng tại Ai Nhĩ Lan
(Ireland) đã cạn, các mỏ bạc tại Đức dù cho khá
phong phú cũng không đáp ứng được sức cầu. Không có
tiền đúc ra, sẽ không có sự trao đổi tài chính và
nền thương mại không thể phát triển. Các khối vàng
bạc để đúc tiền không những tượng trưng cho sự giàu
có mà còn là một phương tiện để làm tăng thêm sự
giàu có.
Vào thời kỳ Phục Hưng, thực
phẩm chỉ có thể lưu trữ được nhờ muối rồi sau đó,
nhờ cách ướp bằng các hương liệu vì thời bấy giờ
chưa có kỹ thuật đông lạnh, và các phương tiện vận
chuyển thực phẩm còn thô sơ. Gia vị như vậy rất cần
thiết ngoài lợi ích giúp cho đồ ăn các hương vị đặc
biệt.
Nhu cầu thưa ba của việc thám
hiểm và khám phá là niềm tin tôn giáo. Các người
sùng đạo đã muốn làm vừa lòng Thiên Chúa bằng cách
giảng đạo và cải biến những kẻ dị giáo theo họ. Dân
chúng và chính quyền tây phương vào thời kỳ này đã
tin tưởng rằng nhiệm vụ của họ là làm cho các người
khác tôn giáo hay vô tôn giáo có cùng niềm tin như
chính họ. Nhu cầu này còn có một lợi ích thực tế
khác là những thổ dân theo đạo mới đã trở nên dễ bảo
hơn, các tù trưởng cải đạo đã cộng tác và phục vụ
chân thành hơn cho các người châu Âu. Cũng vì thế,
mặc dù biết rằng công cuộc thám hiểm thành công hay
thất bại được căn cứ vào số vàng bạc và hương liệu
mang về, Christopher Columbus còn ghi thêm vào sổ về
miền đất mới của châu Mỹ một cách thành thực rằng:
"tôi cho rằng điều ước mong chính của nhà Vua của
chúng tôi là cải biến dân tộc này theo niềm tin của
Chúa". Người biện hộ cho các hoạt động thám hiểm của
nước Anh là Richard Hakluyt đã phát biểu rằng việc
mở rộng lãnh thổ của Nữ Hoàng Anh sẽ mang lại lợi
nhuận, quyền lực, danh dự và cả việc làm sáng danh
Chúa bằng cách ươm trồng tôn giáo vào các kẻ dị giáo
hay không có tín ngưỡng.
Vào thời kỳ Phục Hưng, việc
quan tâm tới thám hiểm và khám phá không phải lý do
kiến thức (knowledge). Các người châu Âu chỉ muốn
khai thác các mỏ kim loại quý rồi sau đó, lo bảo vệ
các con đường thương mại đã được tìm thấy. Cũng vào
lúc này, các người châu Âu biết rằng nhờ các con tầu
biển, các thủy thủ gan dạ có thể tới được bất cứ
miền đất nào có bờ biển rồi quay về xứ an toàn. Đây
là điều quan trọng nhất. Các người Norse (Norsemen)
đã vượt qua vùng biển bắc Đại Tây Dương bằng các con
thuyền có lẽ được trang bị bằng một cánh buồm và họ
có thể đi khá xa. Người Scandinavian đã tìm cách
vượt biển, di cư tới miền đất mới vì quê hương của
họ chật hẹp và đông người. Trái với hai giống người
kể trên, các nhà thám hiểm châu Âu thuộc thế kỷ 15
lại có một quan niệm khác : họ muốn trở về quê
hương, mang về các tài sản kiếm được.
2- Phương
tiện thám hiểm.
Vào thế kỷ 15, đã có những
người đi biển tại châu Á dùng thuyền có buồm, vượt
qua Ấn Độ Dương để đi từ Ấn Độ tới đảo Madagascar và
ngược lại, nhưng những phương tiện hải hành này phải
nhờ vào các trận gió, các giòng nước biển thuận lợi.
Trên các vùng biển quanh Ấn Độ, tại Hồng Hải (the
Red Sea) và tại phía đông châu Phi, các con thuyền Ả
Rập (the Arab dhow) đã bơi xuôi ngược, nhưng loại
thuyền này không thích hợp với việc vượt biển khám
phá và tìm hiểu, vì mạn thuyền được khâu lại bằng
thứ sợi dây dừa, nên không vững chắc như loại tầu
biển có đóng đinh. Loại buồm một cánh hình tam giác
của người Ả Rập đã không hơn được thứ buồm hình
vuông của châu Âu. Tầu biển của người Tây phương vào
thế kỷ 15 là sự phối hợp của hai kỹ thuật
thuyền có
buồm vuông của miền Bắc Hải (the North Sea) với loại
thuyền chèo (oared galley) của vùng Địa Trung Hải.
Chính việc thương mại giữa hai miền bắc và nam của
châu Âu đã khiến cho hai loại thuyền kể trên được
phối hợp để cải tiến thành một thứ tầu biển đi xa
được. Tầu biển của châu Âu vào thời kỳ này dùng
buồm, không dùng sức chèo, lại được lắp các khẩu
súng tại hai bên sườn nhờ vậy hỏa lực rất mạnh và
hữu hiệu khi tác chiến.
Qua nhiều thế kỷ đi biển, các
quốc gia châu Âu đã có kinh nghiệm tại vùng biển
English Channel, tại các vùng nước băng tuyết giữa
Greenland và Scandinavia. Các thủy thủ là những
người không có học vấn, không quan tâm về tôn giáo
nhưng có truyền thống tận tụy, chịu đựng được gian
khổ, tuy thế tỉ lệ thủy thủ trở về nhà sau các
chuyến hải hành là 50 phần trăm vì các thủy thủ
thường mắc bệnh hoại huyết và các bệnh thiếu dinh
dưỡng, vì gặp bão táp và mắc cạn tại các vùng biển
xa lạ, vì gặp thổ dân ăn thịt người và các bất trắc
khác. Như vậy tại sao lại có những người tình nguyện
làm việc trên các con tầu viễn du?
Không có tài liệu nào cắt nghĩa
các động lực theo đó có các thủy thủ tình nguyện,
nên người ta chỉ có thể phỏng đoán có lẽ do lương
bổng trả cao hơn tại các cuộc mạo hiểm, bởi vì các
chuyến vượt biển đi thám hiểm được tài trợ bởi ngân
quỹ của nhà vua hay do vốn đóng góp của một số nhà
buôn giàu có. Cũng vào đầu thế kỷ 15, tuổi thọ của
người dân vào khoảng 30 năm và cuộc sống trên đất
liền cũng khó khăn và bất chắc, số nông dân và
thương nhân bị chết vì bệnh dịch nhiều như số thủy
thủ chết vì bệnh hoại huyết. Khi tầu đã ra khơi,
thuyền trưởng thường dùng tới nhiều thủ đoạn đối với
thủy thủ đoàn, thường là các lời tán dương, hăm dọa,
lường gạt, các khoảng cách giả, các bản đồ bỏ bớt
những hải đảo mà tầu biển có thể ghé vào.
Theo các sổ nhật ký ghi chép
trên các con tầu thám hiểm, các lời than van của
thủy thủ không phải là về các hiểm nguy hay cực nhọc
trên tầu, mà là sự nhàm chán của chuyến đi và sự ít
cơ may trở về nhà. Còn đối với thuyền trưởng, một
trong các nguyên do thúc đẩy họ đi thám hiểm là hy
vọng kiếm được nhiều tài sản, thế nhưng không một
thuyền trưởng nào qua đời trong cảnh giàu sang, kể
cả Christopher Columbus. Chỉ có các nhà chinh phục
(conquistador) cai trị tại Ấn Độ và tại các xứ Mỹ
Châu của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha mới giàu sang cho
đến chết. Cho nên một trong các động lực của các
thuyền trưởng là sự vinh quang cá nhân. Họ thích nổi
danh vì gan dạ, vì khôn ngoan và tài giỏi. Tại Mễ
Tây Cơ, Hernando Cortes đã bắt chước các hành động
oai hùng của người La Mã. Ngoài ra, tại châu Âu vào
đầu thế kỷ 15, con người đã có một phần nào tự do
hành động, không bị trói buộc như tại xã hội Trung
Hoa, nơi có gia đình kiềm chế, hay tại Ấn Độ nặng về
giai cấp xã hội. Tôn giáo của châu Âu là Thiên Chúa
Giáo, vừa mang tính bành trướng, vừa có tính quân sự
(militant). Trái với đạo Hồi chủ trương một cuộc
sống tốt đẹp sau khi đã chết, đạo Thiên Chúa nhấn
mạnh về hạnh phúc nơi dương thế và người theo đạo
Thiên Chúa có tính tự tôn trong hành động.
Vào thế kỷ 14, các nền chính
trị và kinh tế đã sống lại tại nước Ý. Dân chúng
thành phố gia tăng đã khiến sinh ra các nhu cầu thực
tế trong đó có nhu cầu Giáo Dục phổ thông, ngoài
nhiều nhu cầu thuộc các phạm vi khác như Văn Thơ và
Triết Học, Kiến Trúc và Y Học. Nước Ý vào thời bấy
giờ gồm nhiều xứ tự trị nên mỗi khi có xứ nào bị
chiến tranh tàn phá thì các xứ khác vẫn phát triển
và do người dân Ý dùng tới loại lính đánh thuê nên
đời sống tại các thành thị của họ ít bị ảnh hưởng.
Chính vì thế, nền văn hóa cổ điển đã được phục hưng,
đại diện chính là tác phẩm "Quân Vương" (the Prince)
của Machiavelli và các công trình điêu khắc của
Michelangelo vào thế kỷ 16. Ngoài ra các học giả
người Ý còn nổi tiếng trong các bộ môn Toán Học,
Thiên Văn và Địa Dư.
Đồng thời với sự phát triển tại
nước Ý, các nước tại phía tây của châu Âu cũng có
những nét đặc thù : nền thương mại trở nên phức tạp
hơn với ngành tài chính được chính quyền quan tâm
tại các nước Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và
các xứ Đức Phổ. Riêng hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban
Nha đã đạt được các tiến bộ đáng kể về phép vẽ bản
đồ và kỹ thuật đi biển. Những căn bản này rất quan
trọng đối với các nhà thám hiểm vì được rút ra từ
kiến thức cổ điển của nước Ý cộng với các kinh
nghiệm của các thủy thủ cao tay nghề, với các nguyên
tắc địa dư, toán pháp của các nhà toán học người Ả
Rập và với sự học hỏi do các trao đổi thương mại tại
các xứ Hồi Giáo.
Vì vậy không đáng ngạc nhiên
khi thấy nước Bồ Đào Nha bắt đầu thám hiểm bờ biển
phía tây của châu Phi vào đầu thế kỷ 15 rồi sau đó
nước Tây Ban Nha cũng theo đuổi chính sách khám phá.
Hai quốc gia này nằm trên bán đảo Iberian rất thuận
tiện cho việc ra biển, lại quen thuộc với loại tầu
biển của hai miền biển Đại Tây Dương và Địa Trung
Hải. Các tầu buồm ra khơi từ hai nước Bồ Đào Nha và
Tây Ban Nha đã sớm biết lợi dụng các luồng gió mùa,
mùa xuân tới đầu mùa hè, gió thổi theo hướng tây nam
hướng ra Đại Tây Dương, rồi đổi hướng thổi, đưa các
con tầu buồm trở về bến vào mùa thu.
Vào thời kỳ đầu của giai đoạn
thám hiểm, hai quốc gia Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã
dấu kín các điều khám phá. Các khám phá của Vasco da
Gama, của Ferdinand Magellan hay của Sebastian del
Cano đã không được phổ biến, còn nhật ký của
Christopher Columbus tuy còn được lưu lại nhưng chỉ
là một bản tóm tắt do một người khác sao chép. Sự
kín đáo này một phần cũng do các thuyền trưởng là
những người thực tế, không quen với việc mô tả, ghi
chép. Họ cũng không muốn cung cấp các điều khám phá
cho ai ngoài các bậc vua chúa bảo trợ họ. Các chính
quyền Tây Âu thì muốn giữ độc quyền các nguồn lợi
khai thác tại các miền đất mới nên càng khuyến khích
sự bảo mật. Các chi tiết về khám phá vì thế thường
được ghi chép do các nhà ký sự (chroniclers) hay các
nhà du lịch tài tử và những người này thường căn cứ
vào các lý thuyết cổ điển, các điều ước đoán thiên
văn cũng như vào các kinh nghiệm thu lượm được.
Trong khi hai nước Bồ Đào Nha
và Tây Ban Nha đang theo đuổi các chương trình thám
hiểm và dấu kín các khám phá, thì tại hai hải cảng
Lisbon và Seville, các con tầu biển trở về sau các
chuyến hải hành đã mang về nào hương liệu, ngà voi,
nào phẩm nhuộm... và cả người nô lệ. Các thương gia
ngoại quốc buôn bán tại các hải cảng kể trên thường
được nghe kể về các chuyến đi. Họ ghi chép các tin
tức mới lạ, hối lộ để sao chép các bản đồ... rồi
chính quyền của các nước quanh vùng đã phải quan tâm
tới cảnh giàu sang mới, quyền lực mới. Đầu tiên là
nước Anh, tới nước Pháp rồi tới cuối thể kỷ 16 có
nước Hòa Lan cũng tham gia vào danh sách tranh đua
khiến cho việc thám hiểm trở nên một phong trào của
châu Âu.
Trong 2 thế kỷ với một số thủy
thủ gan dạ, vài quốc gia của châu Âu đã đi vào các
vùng biển xa lạ, bắt cóc một số thổ dân rồi dần dần
lập nên các khu vực chiếm đóng tại những địa phương
đã thám hiểm. Thành công của họ là do kỹ thuật, do
tâm lý muốn xâm chiếm đất đai và chế ngự các dân tộc
khác. Sự đô hộ của người châu Âu đã gặp ít chống đối
tại các bộ lạc kém văn minh như bộ lạc Arawark của
miền Tây Ấn, hay bộ lạc Tupinamba sống tại xứ
Brazil. Người da đỏ chuyên săn bắn sinh sống tại Bắc
Mỹ, tại vùng đất giữa Ngũ Hồ và các tiểu bang
Carolina, đã lập được hệ thống chính quyền tương đối
cao nên đã kháng cự lại số người da trắng di cư tới.
Nhưng khuyết điểm của họ là vì họ tin tưởng vào các
thần linh cư ngụ tại mỗi nơi, như các tảng đá, cây
cao, thú vật... cũng vì thế họ đã thỏa hiệp với
những kẻ xâm lăng và đành sống lùi xa nơi khai phá
của người da trắng.
Tại miền Trung Mỹ, giống người
Maya của các miền Yucatan và Guatemala đã biết trồng
ngũ cốc, sống trong các thành phố và duy trì được
một thứ tổ chức chính quyền liên bang đơn giản. Họ
có văn hóa, biết dùng các số đếm kể cả số không.
Người Tây Ban Nha khi xâm lăng các vùng đất này đã
gặp may mắn nhờ người Maya mới bị suy yếu vì nội
chiến, và vũ khí của họ không tinh sảo bằng thứ của
người châu Âu. Hai thổ dân văn minh nhất của châu Mỹ
là người Aztecs thuộc miền Trung Mỹ và người Inca
của miền Peru, cũng phải đầu hàng trước súng đạn của
người Tây Ban Nha, rồi do truyền thống vâng lời và
kỷ luật, hai sắc dân kể trên đành tuân phục các kẻ
xâm lăng.
Tại châu Á, các người châu
Âu
đã tiếp xúc với người Trung Hoa dưới triều Minh vào
thế kỷ 15. Đây là xứ sở với văn hóa và nghệ thuật
cao hơn thứ của châu Âu, nhưng vì người Trung Hoa đã
tự mãn, một phần vì tôn giáo, phần khác vì bị vây
quanh bởi một hệ thống thư lại khép kín và tham
nhũng, họ đã không muốn tiếp xúc với các dân tộc
khác.
Vị giáo sĩ Dòng Tên người Ý tên là Matteo
Ricci tới Trung Hoa năm 1582 và đã sống tại đó trong
28 năm cho tới khi chết, đã nói rằng người Trung Hoa
không có ý niệm về thế giới bên ngoài. Trong khi tại
châu Âu, các tiến bộ về Khoa Học và Kỹ Thuật đang
phát triển thì tại Trung Hoa, các bộ môn kể trên
không được giới trí thức quan tâm, nhất là về Toán
Học và Y Khoa.
Ngoài Trung Hoa, Nhật Bản cũng
là một quốc gia có một nền văn hóa rất rực rỡ, đặc
biệt với hai ngành Kiến Trúc và Hội Họa. Cho tới thế
kỷ 16, nước Nhật Bản đã ở vào tình trạng vô chính
phủ trong ba thế kỷ và cũng giống như nước Trung
Hoa, người Nhật Bản đóng cửa với thế giới bên ngoài.
Sự cấm đoán đã dẫn tới các đạo luật năm 1635 kết tội
tử hình những người đi ra khỏi xứ.
Như vậy trong số các dân tộc
văn minh vào đầu thế kỷ 15, người châu Âu đã có được
các tiến bộ Khoa Học, Kỹ Thuật, rồi nhờ căn bản Kỹ
Thuật, họ đã theo đuổi các chương trình thám hiểm và
khám phá các miền đất mới, nơi có các thổ dân hoặc
quá sơ khai hay không được võ trang, hoặc bị chia rẽ
nội bộ hay đóng cửa, làm ngơ trước các kẻ xâm lăng.
Trong thời đại khám phá
(1420-1620), các nhà thám hiểm người châu Âu đã vượt
biển, tìm hiểu những điều chưa biết, họ đã tin tưởng
rất ít vào lý thuyết, không ỷ lại vào sự yểm trợ của
chính quyền tại quê nhà, họ đã dùng tới kỹ năng của
riêng họ cùng với lòng cam đảm và khả năng ứng biến
để chinh phục các dân tộc khác và các miền đất mới.
3- Các thuyền
trưởng của Hoàng Tử Henry.
Vào thời Trung Cổ, các người
châu Âu tin rằng thế giới gồm 4 lục địa là châu Âu,
châu Phi, châu Á và một vùng đất được hiểu biết lờ
mờ, nằm tại phía nam và được gọi bằng tên Terra
Incognita. Các bản đồ của thời kỳ này đã mô tả phần
đất nhiều hơn phần biển. Người ta chưa biết tới Thái
Bình Dương. Đại Tây Dương được vẽ như một con sông
nhỏ và vùng đất Terra Incognita đã nằm ở phía nam
khiến cho Ấn Độ Dương chỉ là một biển nhỏ nằm trong
đất liền.
Sự sai nhầm trong cách mô tả
này một phần do trình độ hiểu biết của các nhà vẽ
bản đồ, một phần cũng do niềm tin tôn giáo. Do
truyền thống của đạo Thiên Chúa, thành phố Jerusalem
được coi là trung tâm của thế giới, là tâm của thứ
bánh xe tròn với 4 lục địa ở chung quanh. Các bản đồ
vẽ thế
4- Nhà thám
hiểm Vasco da Gama.
Năm 1460, Hoàng Tử Henry qua
đời. Sự kiện này đã làm tiêu tan động lực thúc đẩy
các nhà thám hiểm Bồ. Nhưng việc tìm hiểu các miền
đất mới đã không ngừng lại. Đường Xích Đạo được Lopo
Goncalves băng qua vào năm 1473 mà không một thủy
thủ nào bị cháy thành than! Các thám hiểm vẫn tiếp
tục nhưng số lượng vàng bạc mang về xứ không được
nhiều như trước, người thời đó đành hy vọng ở các
hương liệu. Câu hỏi đặt ra cho họ là làm sao tới
được Ấn Độ và muốn vậy, châu Phi phải là một lục địa
tròn trong khi bờ biển của lục địa này vẫn tiếp tục
trải dài hướng về phía nam.
Sau Bồ Đào Nha, nước Tây Ban
Nha bắt đầu chiếm được một số hải cảng trên các miền
bờ biển châu Phi. Đã xẩy ra một số tranh chấp giữa
hai nước lân bang này. Để dành riêng châu Phi cho
mình và giải quyết mọi tranh chấp, nước Bồ đã trông
cậy vào vị Giáo Hoàng. Trong nhiều thế kỷ, giáo hội
Thiên Chúa đã từng là trọng tài của các quốc gia
theo Thiên Chúa giáo, nhưng ảnh hưởng của Giáo Hoàng
đã bị kém dần. Tuy thế, từ năm 1455, nước Bồ Đào Nha
đã nhận được một loạt các công bố của Giáo Hoàng cho
họ tất cả các hải đảo và miền đất phía nam Cape
Bojador. Năm 1478, Vua Ferdinand và Nữ Hoàng
Isabella của các vương quốc Aragon và Castile, đã
xin Giáo Hoàng đặc quyền buôn bán với xứ Guinea và
đã bị từ chối trong khi tầu buôn Tây Ban Nha vẫn
tiếp tục đáp vào vịnh Guinea để tìm bắt nô lệ. Tại
bến cảng Seville, các con tầu mang về dân nô lệ da
đen là những hình ảnh quen thuộc, chứng tỏ các hoạt
động thám hiểm của người Tây Ban Nha tới các miền
đất của châu Phi.
Sau đó, nước Anh cũng xin phép
Giáo Hoàng được quyền tới châu Phi và buôn bán.
Trước những
cạnh tranh của các quốc gia khác nhau,
Vua Bồ Đào Nha John II bèn ra lệnh cho Diego Cao
thực hiện một loạt các thám hiểm để tìm đường đi tới
Ấn Độ. Các tầu viễn du của Diego Cao được cung cấp
các cột mốc bằng đá, có ghi rõ bằng tiếng La Tinh,
tiếng Bồ và tiếng Ả Rập để đánh dấu những nơi tìm ra
và nhận chủ quyền về cho nước Bồ Đào Nha. Diego Cao
đã đóng một cột đá tại cửa sông Congo vào năm 1483
và một cột khác tại Cape Cross, 22 độ phía nam của
Xích Đạo. Nhà thám hiểm Cao đã đi dọc bờ biển được
1,500 dặm, từ Cape St. Catherine tới Cape Cross
nhưng lục địa châu Phi vẫn tiếp tục trải dài vô tận
về phía nam.
Năm 1487, Vua John lại phái
Bartolomeu Dias với ba tầu biển, chủ đích đi vòng
lục địa châu Phi và nếu có thể thì bắt liên lạc với
Vua Giáo Sĩ Prester John. Kết quả của các lần đi
thám hiểm của Dias vẫn được giữ kín như trước kia và
sau này, người ta được biết rằng Bartolomeu Dias đã
tới được địa điểm mà ngày nay là Luderitz, 520 dặm
về phía tây bắc của Mũi Hảo Vọng (Cape of Good
Hope). Một trận bão đã thổi con tầu của Dias vòng
qua Mũi Hảo Vọng và khi cơn gió dịu đi, Dias đã tìm
nơi trú ẩn trong vịnh Mossel rồi sau đó, dương buồm
tới địa điểm có tên hiện nay là Port Alfred. Trên
đường về, nhà thám hiểm đã gọi mũi đất nhô ra biển
nhiều nhất của phần phía nam của châu Phi là Mũi
Phong Ba (Cape of Storms) và về sau, Vua John đã đổi
tên là Mũi Hảo Vọng, với hy vọng ở tương lại tốt
đẹp.
Tới lúc này, Xích Đạo đã được
các tầu biển Bồ Đào Nha vượt qua nhiều lần và không
một thủy thủ nào bị đốt cháy thành than. Các truyền
thuyết cổ về những hiểm nguy đã bị bác bỏ và đã có
tầu biển vòng qua được mỏm cực nam của châu Phi.
Người Tây phương khi bước lên bờ, thám hiểm các miền
đất mới, đã gặp các loại thổ dân khác nhau. Hỏa lực,
gươm giáo và áo giáp của họ đã cho phép họ chiếm
đoạt bất kể món hàng nào mà họ muốn có, ngay cả khi
thổ dân thù nghịch, chống cự.
Cũng vào năm 1487 khi sai Dias
đi thám hiểm miền biển cực nam của châu Phi, Vua
John của Bồ Đào Nha còn gửi đi hai phái đoàn cùng
tới Aden theo đường bộ, một đoàn với chủ đích tìm ra
con đường dẫn đến các nơi giàu có của phương đông,
đoàn kia tìm cách bắt liên lạc với Vua Giáo Sĩ
Prester John. Pero da Covilha được lệnh đi qua
Arabia để tới Ấn Độ. Ong này đã tìm thầy con đường
biển mà các con tầu Hồi giáo thường chuyên chở hương
liệu vượt qua Ấn Độ Dương để tới châu Phi. Nhà thám
hiểm thứ hai cũng thông thạo tiếng Ả Rập như
Covilha, là Afonso de Paiva. Đoàn thám hiểm này đi
sâu vào lục địa châu Phi từ phía đông bắc, lục tìm
tại xứ Ethopia ngày nay.
Cũng giống như các điều tìm
thấy của Bartolomeu Dias, khám phá của hai đoàn thám
hiểm kể trên được giữ kín. Covilha đã tới Calicut,
là một thành phố ở phía tây của xứ Ấn Độ (Calcuta ở
phía đông). Tại nơi này, các con thuyền gỗ của Trung
Hoa và của miền đông Ấn Độ chuyên chở tới nào hương
liệu, vàng bạc, nào tơ lụa và đồ sứ... Các mặt hàng
quý giá này sau đó được chuyển tới vịnh Ba Tư và tới
miền đông của châu Phi.
Covilha thực ra không phải là
người châu Âu đầu tiên tới được xứ Ấn Độ. Trước đó
đã có các thương nhân từ Cairo đi theo biển Hồng
Hải, rồi còn có những lái buôn khác từ các thành phố
Venice, Genoa..., từ các xứ Pháp và Hòa Lan. Covilha
sau đó đã đi ngược về vịnh Ba Tư và tới Sofala, phía
nam của Beira thuộc châu Phi. Tại nơi này, ông ta đã
nghiên cứu thấy rằng Ấn Độ Dương tiếp nối với Đại
Tây Dương và như vậy, từ châu Âu có thể dùng đường
biển để đi vòng phía dưới châu Phi tới Ấn Độ.
Khi tới Cairo vào năm 1490,
Covilha mới biết tin nhà thám hiểm Paiva đã chết.
Lệnh của Vua John II bắt ông phải đảm nhiệm
sứ mạng
của Paiva bỏ dở. Covilha tìm đường tới được triều
đình của vua xứ Ethopia và đã thấy rõ không có vị
Vua Giáo Sĩ nào là Prester John cả. Năm 1520 có một
phái đoàn khác của triều đình Bồ Đào Nha tới được xứ
Ethopia và đã gặp lại ông Covilha già nua tại triều
đình của xứ này, vì Vua Ethopia đã không cho phép
ông ta ra đi, nhưng chắc chắn là các báo cáo của
Covilha cũng đã tới được tay của Vua John II của Bồ
Đào Nha. Sau khi vị vua này chết năm 1495, vua kế
tiếp là Manuel vẫn tiếp tục chính sách mở đường tới
Ấn Độ.
Nhà thám hiểm đi theo con đường
của Dias khi trước và được vua Manuel chọn lựa là
Vasco da Gama. Không còn tài liệu nào nói về cuộc
đời của Da Gama ngoài chi tiết ông ta sinh năm 1460,
là con của một viên chức nhỏ nhưng chắc hẳn ông ta
đã có một thành tích đáng kể về đi biển. Da Gama
được lệnh điều kiển bốn con tầu trong đó ba chiếc
được đóng dưới sự giám sát của Bartholomeu Dias, là
tầu chỉ huy Sao Gabriel, tầu Sao Raphael, còn tầu
thứ ba có tên gọi không còn được ghi lại và Berio là
con tầu thứ tư.
Ngày 8 tháng 7 năm 1497, Vasco
da Gama đã cho tầu rời hải cảng Lisbon. Có lẽ do lời
khuyên của Dias, hải trình kỳ này đã không theo sát
bờ biển của miền tây châu Phi mà vòng ra xa để tránh
các giòng nước không thuận tiện và các bãi đất ngầm.
Da Gama đã lợi dụng được luồng gió mùa và sau ba
tháng, vượt hơn 4,000 dặm, đoàn tầu đã tới được bờ
biển châu Phi tại vịnh St. Helena, phía bắc của Cape
Town. Sau đó đoàn thám hiểm tiếp tục đi qua Cape
Agulhas, tới vịnh Mossel. Tại vịnh này, Da Gama cho
đóng một cột ghi dấu rồi lại tiếp tục dương buồm về
hướng đông. Trên đường đi, Da Gama đã đặt tên cho
các địa điểm như Natal với ý nghĩa là Ngày Sinh của
Chúa, hay giòng sông "Các Điềm Lành" (the River of
Good Omens). Khi tới hải cảng Mozambique, Da Gama đã
gặp các thương nhân có hình dáng kỳ dị, các người Ả
Rập và thổ dân buôn bán trên bến cảng. Sau đó, đoàn
thám hiểm tới Mombasa, một hải cảng Ả Rập sầm uất
rồi tới Malindi, nơi đã có một cộng đồng người Ấn Độ
cư ngụ. Một số người theo Thiên Chúa giáo tại nơi
này đã khiến cho Da Gama tin rằng Vua Giáo Sĩ
Prester John ở không xa đó, sâu vào trong đất liền.
Sau khi Vasco da Gama thuê được
một thủy thủ lái tầu tài giỏi tên là Gujarati của
miền tây Ấn Độ, đoàn tầu của ông đã vượt qua eo biển
Ả Rập, tới được hải cảng Calicut, nơi mà trước kia
Covilha đã báo cáo vào năm 1490.
Ngày 29 tháng 8 năm 1498, Vasco
da Gama quyết định cho đoàn tầu rời Calicut để trở
về Bồ Đào Nha. Hải trình qua Ấn Độ Dương mất ba
tháng và nhiều thủy thủ đã mắc bệnh hoại huyết. Vì
không đủ người, Da Gama đành phải hủy bỏ con tầu Sao
Raphael gần Mombasa, rồi cuộc trở về đã không gặp
khó khăn. Tháng 9 năm 1499, đoàn tầu của Vasco da
Gama đã về tới bến cảng Lisbon sau hơn hai năm đi
biển, vượt qua được 24,000 hải lý với 44 thủy thủ
sống sót trong số 170 người đã ra đi.
Thành quả của Vasco da Gama
trong chuyến đi vòng qua phía nam của châu Phi để
tới Ấn Độ đã khiến cho nhà hàng hải này được xếp
hàng đầu trong các nhà thám hiểm của mọi thời đại.
Các khó khăn gặp phải và các may rủi đòi hỏi tới
lòng cam đảm và tài năng của một thuyền trưởng đã
khiến cho Vasco da Gama được ca tụng tương đương với
Christopher Columbus.
Vasco da Gama đã mang lại cho
người châu Âu các quan niệm mới về thế giới, một nơi
không còn bị giới hạn bởi bốn lục địa. Thế Giới từ
nay đã được mở rộng cho nhiều người khác thám hiểm
và khai thác./.
Bài đọc thêm:
Christopher Columbus
Marco Polo, nhà thám hiểm châu Á
Sơ lược tiểu sử các nhà hàng hải
Lịch sử thám hiểm ngành Hàng Hải
Lịch sử la bàn
Lịch sử nước Hoa Kỳ
|