Những bài cùng tác giả
Những nhà toán học nổi danh
Trong cách diễn đạt hiện đại của thuyết Tương Đối,
chỉ có một khối lượng, đó là khối lượng theo nghĩa của Newton
không thay đổi với vận tốc. Tiếc thay trong khá nhiều sách giáo
khoa về thuyết tương đối hẹp ở Âu, Mỹ, Á ngày nay, nhiều thuật
ngữ thiếu thuần lý và ký hiệu nhầm lẫn hãy còn xuất hiện, mặc
dầu Einstein đã cảnh báo năm 1948.
1-Vài điều sơ đẳng
1a- Khối
lượng của vật chất là một khái niệm quan trọng trong khoa học mà
nhân loại đã ý thức ít nhiều về nó có lẽ ngay từ thuở các nền
văn hiến ngàn xưa thời Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy Lạp, Trung Quốc, Ấn
Độ. Một cách định tính, ta hãy khởi đầu với cơ học cổ điển của
Galilei và Newton theo đó khối lượng m của một vật được
hiểu như bản tính nội tại của nó, m gói ghém “số lượng
của vật chất” kết tụ trong đó.
Sau nữa, phương trình căn bản của cơ học cổ
điển F = ma =
mdv/dt bảo cho ta khối lượng diễn tả quán
tính của vật thể. Thực thế bất kỳ một lực F nào
(trọng lực, lực điện-từ, lực hạt nhân, lực cơ bắp hay máy móc)
khi áp đặt lên một vật A mang khối lượng m, vật đó sẽ
chuyển động với gia tốc a. Cũng một lực F
ấy khi tác động lên một vật B khác mang khối lượng ba lần
lớn hơn A thì dĩ nhiên gia tốc của B so với A giảm đi ba lần,
nó chuyển động chậm chạp hơn A hay có quán tính lớn gấp ba
lần A. Vậy khối lượng biểu lộ khả năng quán tính của vật thể
chống lại sự di động. Nếu không có một lực F nào
áp đặt lên một vật thì nếu ban đầu đã chuyển động với một vận
tốc v nào đó thì nó cứ tiếp tục di chuyển với vận tốc ấy,
hoặc nếu đứng yên thì cứ mãi đứng yên. Tóm lại vì gia tốc
a = 0 (do F = 0) nên
vận tốc v cố định, không thay đổi với thời gian.
1b- Còn
năng lượng? Dưới dạng sức nóng - mà ta gọi là nhiệt năng - có lẽ
con người đã cảm nhận ra khái niệm năng lượng ngay từ thuở họ
phát minh ra lửa cách đây khoảng 500000 năm, và không phải ngẫu
nhiên mà ngôn từ calorie đã được dùng để chỉ định đơn vị năng
lượng. Nó là căn nguyên tác động lên vạn vật để làm chúng biến
đổi dưới mọi hình thái hoặc làm chúng di chuyển. Như vậy năng
lượng chẳng thể tách rời khỏi lực và để diễn tả chính xác bằng
ngôn từ toán học, năng lượng được định nghĩa như tích số
của vectơ lực F nhân với vectơ chiều dài x
mà vật di chuyển do tác động của F áp đặt lên nó.
Thực vậy, tích số F. x trước hết gọi
là công làm ra bởi lực F tác động lên vật.
Đó là một định nghĩa hợp lý và dễ hiểu vì nó chỉ định cái công
sức mà lực phải bỏ ra để làm cho vật di chuyển một đoạn chiều
dài x với vận tốc v =
dx/dt . Khi ta mang cho vật cái
công sức của F thì vật đó phải biến đổi bởi
vì nó thu nhận một năng lượng E, và ta định nghĩa năng
lượng mà vật thu được này chính là công của lực F
mang cho nó. Vậy E = F.
x, và dưới dạng vi phân dE
= F.dx, ta suy ra là sự biến
đổi theo thời gian t của năng lượng dE /dt chính là tích
số F.v, dE/ dt = F.v
mà ta sẽ dùng sau này để tìm ra phương trình của thế kỷ.
Trong cơ học có hai loại năng lượng thường
được nhắc đến: thế năng và động năng. Thí dụ thứ nhất là trọng
lực Fg =
mg
(với g = |g| ≈ 9.81m/s2
chỉ định gia tốc tạo nên bởi trọng trường của trái đất).
Sức hút Fg kéo khối lượng m rơi
từ trên một độ cao h = |x| xuống
mặt đất. Vì Fg và x song
song và cùng hướng về trung tâm trái đất nên
Fg.x
= mgh. Đại lượng mgh gọi là thế năng
(potential energy) của vật đặt ở độ cao h so với mặt đất. Ở bất
kỳ một điểm cao h nào đó, vật mang sẵn một năng lượng mgh
tiềm tàng, một thế năng. Thí dụ thứ hai là với bất cứ một lực
F nào, ta cũng có dE = F.dx,
khi thay dx = vdt và F = mdv/dt,
ta có dE = mv.dv, làm tích phân ta
được E = (½)mv2,
với v = |v|. Ta gọi năng lượng (½)mv2
là động năng (kinetic energy). Một vật khối lượng m
chuyển động với vận tốc v mang động năng (½) mv2.
Một vật đứng yên (vận tốc = 0) rơi từ một độ cao h, khi chạm đất
nó có vận tốc v = (2gh)½, thế năng mgh chuyển
sang động năng (½) mv2, minh họa luật bảo toàn
năng lượng.
Sau hết, ta định nghĩa vectơ xung lượng p
= mv và phương trình cơ bản
F = mdv/dt nay viết dưới dạng
F = dp/dt.
2- Vài nét về thuyết Tương
Đối Hẹp
Ai trong chúng ta khi đi máy bay cửa sổ đóng
kín và không gặp bão lay động mà có thể cảm thấy mình di chuyển
với vận tốc khoảng ngàn cây số trong một giờ ? Khoảng bốn trăm
năm trước đây, Galileo Galilei (1564-1642) cũng đưa ra một thí
dụ tương tự, mở đầu cho nguyên lý tương đối mang tên ông:
trong hầm kín mít không giao tiếp gì với thế giới bên ngoài của
một chiếc tàu thủy di chuyển đều đặn, ta hãy quan sát
những con bướm bay khắp phía và những giọt nước tí tách rơi. Nay
để tàu đứng yên, ta thấy bướm vẫn bay và nước vẫn rơi hệt như
trước, chẳng có gì thay đổi. Rồi tàu lại di chuyển đều
đặn, nhưng với vận tốc và chiều hướng khác, bướm vẫn bay và nước
vẫn rơi như khi tàu dừng ở bến. Nói một cách khác: những định
luật miêu tả các hiện tượng thiên nhiên (bướm bay, nước rơi)
không chút thay đổi trên tàu di chuyển đều đặn (bất
kỳ vận tốc và chiều hướng nào) kể cả tàu dừng ở bến (v = 0).
Người ở trong tàu nếu chỉ quan sát đo lường những hiện tượng
động hay tĩnh trong tàu mà không tiếp xúc với bên ngoài để so
sánh thì chẳng sao biết là tàu đứng hay đi, và đi với vận tốc
nào, chiều hướng nào. Nói khác đi tĩnh hay di động đều đặn
chỉ là chuyện tương đối, chẳng có lý gì để khẳng định bến
hay tàu cái nào đứng, cái nào đi.
Nguyên lý tương đối mà Galilei tóm tắt trong
một câu ngắn gọn ‘’di chuyển đều đặn cũng như không’’,
hàm ý rằng trong hai hệ quy chiếu, một cái bất động K (tọa độ
x,y,z,t), một cái K’ di động (tọa độ x’,y’,z’,t’) với vận tốc
v cố định, các định luật miêu tả thiên nhiên đều
giống hệt nhau, hay f(x,y,z,t) = f(x’,y’,z’,t’) hàm số f tượng
trưng cho một định luật vật lý nào đó. Khi nguyên lý này áp dụng
cho điện-từ để diễn tả vận tốc ánh sáng c không thay đổi
trong tất cả các hệ quy chiếu thì hàm số f chính là f(x,y,z,t) ≡
(ct)² – (x² + y² + z²).
Einstein khởi đầu bằng chấp nhận nguyên lý
tương đối áp dụng cho điện-từ như một tiền đề - theo đó vận tốc
ánh sáng bao giờ cũng cố định và bằng c, không thay đổi
trong bất kỳ các hệ quy chiếu quán tính nào - mà
Michelson và Morley đã chứng tỏ bằng thực nghiệm. Vận tốc ánh
sáng không thay đổi trong hai hệ quy chiếu được diễn tả
bằng ngôn ngữ toán học là bình phương khoảng cách s² của
ánh sáng truyền đi trong hai hệ quy chiếu K và K’ phải
như nhau hay bất biến:
s² ≡ (ct)² – (x² + y² + z²) = (ct’)² – (x’² + y’²
+ z’²). Với thời gian phổ quát duy nhất của Newton (t = t’) thì
s² không sao bất biến được và đã làm đau đầu bao nhà khoa học.
Dùng nguyên lý tương đối để áp dụng cho sự vận hành của ánh
sáng, các vị Lorentz, Poincaré, Einstein mỗi người một cách đã
phát kiến ra hệ số γ = 1 ⁄ √(1− v² ⁄c²) ≥ 1 chìa khoá mở
đường vô cùng quan trọng cho cơ học tương đối tính.
Einstein suy từ đó ra nhiều hệ quả kiểm chứng được bằng thực
nghiệm, trước hết là phương trình E = γmc² của thế
kỷ, liên kết năng lượng E khổng lồ với khối lượng m
nhỏ bé,
tuyệt vời và đại chúng.
  
Henri
Poincaré (1854-1912)
Hendrik Lorentz (1853-1928)
Hermann
Minkowski(1864-1909)
Thông điệp thứ hai, sâu sắc và kỳ lạ, là
chẳng có một thời gian tuyệt đối và phổ quát trong một không
gian biệt lập với thời gian. Có muôn ức thời gian (t’ và t dẫu
khác nhau nhưng cả hai đều chỉ định thời gian trong hai hệ quy
chiếu) nhanh chậm không đồng đều, thời gian của mỗi hệ quy chiếu
tùy thuộc vào vận tốc chuyển động của hệ ấy. Mỗi thời-điểm
phải gắn quyện với mỗi không-điểm trong một thực tại bốn chiều
gọi là thế giới Minkowski để diễn tả một sự kiện. Khoảng
cách thời gian của bạn khác của tôi, ở mỗi điểm không gian lại
gắn liền một đồng hồ đo thời gian với nhịp điệu tích tắc khác
nhau.
Sở dĩ bạn và tôi tưởng rằng chúng ta chia sẻ một thời gian phổ
quát, chỉ vì cộng nghiệp con người trong cái không gian quá nhỏ
bé của trái đất so với vũ trụ, bạn và tôi đâu có xa nhau gì, vận
tốc tương đối giữa chúng ta thấm gì so với vận tốc ánh sáng (v²⁄c²
« 1, γ ≈ 1). Không có mũi tên thời gian lạnh lùng trôi của trực
giác mà cơ học cổ điển Newton thừa nhận, cũng không có khái niệm
hiện tại, cái bây giờ chẳng thể xác định và giữ vai trò
ưu tiên đặc thù nào hết vì cái lúc nào phải đi với cái
ở đâu. Hơn nữa, không gian và vật chất, cái vỏ chứa và cái
nội dung chứa đựng trong vỏ, lại như hình với bóng trong vũ trụ
co dãn (thuyết tương đối rộng). Đã không có hiện tại thì nói chi
đến quá khứ và tương lai, đó là nội dung triết học quá ư kinh
ngạc của thuyết tương đối hẹp và rộng trong nhận thức về thời
gian, nó không phải là mũi tên trôi một chiều từ quá khứ đến
tương lai mà chỉ là một trong bốn thành phần của một thực tại
mang tên gọi không-thời gian chẳng cứng nhắc mà đàn hồi. Diễn tả
hàm súc nhất về nhận thức này có lẽ nằm trong bức thư Einstein
gửi cho con trai của Besso
khi nghe tin bạn mất. Bức thư viết: ‘’Vậy bạn đã trước tôi một
chút giã từ cái thế gian lạ lùng này. Nhưng cái đó chẳng nghĩa
lý gì. Đối với chúng ta, những nhà vật lý có xác tín, sự chia
cách quá khứ, hiện tại, tương lai chỉ là một ảo tưởng, dẫu nó
dai dẳng đến thế nào’’.
Điều cơ bản cần nhấn mạnh là không gian và
thời gian chẳng còn biệt lập nhưng mật thiết liên đới trong một
thực thể bốn chiều không-thời gian của Minkowski
.
3- Ba con đường đến E = γmc2
Tại sao ba con đường? Nhà vật lý kỳ tài Richard Feynman
từng khuyến khích là nếu có thể thì nên suy diễn, trình bày hay
chứng minh một kết quả khoa học nào đó theo nhiều phương pháp
khác nhau để rọi sáng vấn đề.
Trước hết cần minh định là chỉ có phương
trình E0= mc2 hay
E = γmc2
mới thực sự phản ánh ý nghĩa của thuyết tương đối, E thay
đổi theo vận tốc của vật, động năng (½) mv2 là
thí dụ cụ thể nhất, còn E0 là năng lượng khi
vật đứng yên. Phương trình E0 = mc2
và ΔE0 = (Δm)c2
chính Einstein đã viết ra.
Trong các sách sư phạm nghiêm túc về cơ học tương đối tính (hay
thuyết tương đối hẹp), theo Einstein
để tránh sự mơ hồ, thậm chí nhầm lẫn về khái niệm khối lượng, ta
không nên đưa ra hai ký hiệu: m(v) ≡ γm và m0
≡ m(v = 0) của một vật, theo đó m0 là khối lượng khi
vật bất động và m(v) = m0/√(1− v²⁄c²) là ‘khối
lượng tương đối tính’ khi vật chuyển động với vận tốc v.
Chỉ có một khối lượng m trong các định
luật vật lý, không có khối lượng m0 của một vật bất
động hay khối lượng ‘tương đối tính’ m(v) thay đổi với vận tốc v
của mỗi hệ quy chiếu. Trong nhiều sách đại chúng, E =
mc2 vẫn thấy, cũng như nhan nhản trên các tấm
quảng cáo siêu thị để nói đến vĩ nhân Einstein lè lưỡi, thậm chí
phương trình còn được dùng để đùa cợt như ký hiệu mc6
của một đài truyền hình. Nhưng đó lại là một chuyện khác, không
khoa học.
3a-
Henri Poincaré, nhà toán học vạn năng Pháp, năm 1900 (trước năm
thần kỳ 1905) đã viết ra
E = mc2, nhưng phải nói ngay là phương
pháp của ông để tìm ra nó không được nhất quán, chính vì vậy mà
tác giả đã quên hẳn đi đến nỗi năm 1908, ba năm sau khi Einstein
khám phá ra E0 = mc2
, Poincaré - khi so sánh một vật phát xạ ánh sáng với một
khẩu đại bác bắn ra một viên đạn - đã viết trong La dynamique de
l’électron, Science et Méthode (1908) mấy câu sau đây: ‘’ Khẩu
đại bác giật lùi vì viên đạn bị bắn ra đã tác động trở lại.
Trường hợp vật phóng quang lại là chuyện khác, ánh sáng phát ra
không phải là vật chất, đó là năng lượng, mà năng lượng thì
không có khối lượng’’. Qua câu trên, rõ ràng Poincaré dẫu có
viết ra E = mc2 thì ông đã quên nó rồi.
Poincaré tìm ra E = mc2 bằng cách nào? Trước
hết, ông xem xét một đoàn sóng ánh sáng có năng lượng E
và xung lượng p. Như ta biết, điện từ trường E, H
mang một năng lượng tỷ lệ với (|E|2
+ |H|2) còn xung lượng thì tỷ
lệ với vectơ E × H. Theo định lý Poynting trong điện từ
thì p ≡ |p| = E/c, điều chính xác đối với photon
không có khối lượng. Cái lầm của Poincaré là dùng phương trình
cơ học cổ điển p = mv (với v = c)
để áp dụng cho đoàn ánh sáng. Đó là một nghịch lý như ta biết
ngày nay, vì cơ học cổ điển chỉ áp dụng cho vật di động chậm, v
« c. Khi kết hợp hai cái ‘không nên kết hợp’ p = E/c
với p = mc, ông thấy E = mc2 và
kết luận là ánh sáng với năng lượng E có khối lượng m
= E/c2 ≠ 0. Điều kỳ quái là ngày nay hãy còn vài
tác giả Pháp bảo hoàng hơn vua khẳng định rằng Poincaré là tác
giả phương trình của thế kỷ.
3b-
Hệ số γ, một giai đoạn trung gian cần thiết. Trong thuyết tương
đối hẹp, mỗi không-điểm x phải gắn một
thời-điểm t trong một thực tại không-thời gian bốn chiều
Minkowski. Một tứ-vectơ không-thời gian là tập hợp mang
bốn thành phần với ký hiệu xμ (x0 = ct,
x), vectơ vận tốc v = dx/dt, gia tốc a
= dv/dt. Nét đặc trưng của phép hoán chuyển Lorentz là có
một khoảng cách thời gian dτ bất biến trong mọi hệ quy
chiếu, τ là thời gian riêng định nghĩa bởi cdt2
– (dx2 + dy2 + dz2) = cdτ2
(phụ chú 3). Vì v2 = (dx2 + dy2
+ dz2)/dt2, ta suy ra γdτ = dt, với γ =
1/√(1− v² ⁄c²). Khoảng cách thời gian riêng của
mỗi không-điểm được liên kết với những khoảng cách thời gian
riêng khác bởi τ = t/γ. Ta tính được một đẳng thức quan trọng:
dγ/dt = γ3(v.a)/c2
(1)
Từ tứ-vectơ không-thời gian xμ (x0
= ct, x), ta lập một tứ-vectơ xung lượng pμ
= mdxμ/dτ, và tính ra bốn thành phần của pμ
(p0 = γmc, p = γmv).
Phương trình F = dp/dt = md(γv)/dt
cho ta F = [mγ3(v.a)/c2]
v + mγa thay thế phương trình F =
ma, cũng như p = mγv thay
thế p = mv của cơ học cổ điển, nó là
giới hạn khi c → ∞ của cơ học tương đối tính.
3c-
Cách thứ nhất để chứng minh E = γmc2 là
dựa vào dE/dt = F.v đề cập ở đoạn
1b. Dùng đẳng thức F =[mγ3(v.a)/c2]
v + mγa vừa thiết lập ở trên, ta tìm ra
F.v = mγ3(v.a),
khi kết hợp nó với (1), ta có F.v = mc2
dγ/dt = dE/dt và như vậy E = γmc2.
Cách thứ hai là liên kết thành phần p0
= γmc (của tứ-vectơ xung lượng pμ) với năng
lượng E, và xin chú tâm đến thứ nguyên ML2/T2
của năng lượng (ba đại lượng cơ bản, khối lượng
M, chiều dài không gian L, thời gian T).Vậy phép phân tích thứ
nguyên bảo ta p0 = E chia cho một vận tốc nào
đó. Ta chỉ có hai lựa chọn, đó là v hay c, nhưng v không
thích hợp vì nó có thể bằng 0 và đưa p0 đến một giới
hạn vô tận, vậy p0 = E/c. Với p0
= γmc, ta có E = γmc2. Lựa
chọn p0 = E/c còn phù hợp với trường
hợp v « c, vì khi ta khai triển hệ số γm thành
chuỗi (v/c)n thì ta có γm ~ m +
(½)m(v2/c2) + ..., ta nhận
ra γmc2 chứa đựng động năng (½)mv2
quen thuộc của cơ học. Đó cũng là phương pháp mà Einstein đã
dùng để tìm ra phương trình của thế kỷ.
Cách thứ ba hơi dò dẫm, như một thử nghiệm
(educated guess) đôi khi được sử dụng trong nghiên cứu khoa học.
Ta nhận thấy mặc dầu bốn thành phần của tứ-vectơ pμ,
vì phụ thuộc vào hệ số γ nên chúng đều thay đổi theo v, nhưng độ
dài bình phương của tứ-vectơ (p0)2 –
|p|2 không phụ thuộc vào v nữa, nó bất
biến: (p0)2 – |p|2
= m2c2. Cũng vậy, năng
lượng E = γmc2 và xung lượng p = γmv
đều thay đổi theo các hệ quy chiếu nhưng E2 –
|p|2c2 không phụ thuộc vào
v, nó bất biến trong mọi hệ quy chiếu: E2
– |p|2c2 = m2c4.
Tính chất bất biến là điều kiện tiên quyết mà thuyết
tương đối đòi hỏi. Nếu E ≠ γmc2
(thí dụ E = γmcv), ta không có một bất biến nào.
Từ đó ta viết ra hai phương trình cơ bản của thuyết tương đối
hẹp:
E2
– |p|2c2 = m2c4
(2)
p = v (E/c2)
(3)
Hai phương trình trên áp dụng cho vạn vật với
khối lượng m bằng hay khác 0. Với photon (hay neutrino
m ≈ 0), phương trình (2) cho ta E = pc. Hơn
nữa photon vì có khối lượng m = 0, nó chẳng bao giờ bất
động, vận tốc lúc nào cũng bằng c, do đó tích số γm
của photon mang dạng 0/0, nó có thể là bất cứ một con số
nào. Năng lượng E = γmc2 như thế rất có
thể khác 0 và thực vậy. Ta đi vào lãnh vực của lượng tử với
Planck và Einstein: E = hν = pc. Năng lượng
của photon không xác định được trong thuyết tương đối mà lại đến
bằng con đường lượng tử với Planck và Einstein: E = hν.
Tuy khối lượng bằng 0, photon có năng lượng tỷ lệ với tần số dao
động ν của nó và h = 6.63 x10–34 Js là hằng số
Planck. Tuy h cực kỳ nhỏ nhưng tần số ν của sóng điện từ
rất lớn (hàng tỷ lần tỷ trong một giây đồng hồ) nên năng lượng
E = hν không nhỏ.
Tóm lược
Khối lượng m mang tính chất nội tại của một vật,
nó không phụ thuộc vào bất kỳ hệ quy chiếu nào. Khối lượng m
phải là một bất biến (như vận tốc ánh sáng c, hay điện
tích e của electron), trong bất kỳ hệ quy chiếu nào nó
phải như nhau. Không có khối lượng của vật chuyển động m(v) hay
khối lượng của vật đứng yên m0 = m(v = 0), nó không
thay đổi với vận tốc, chỉ có một khối lượng duy nhất m =
√(E2–|p|2c2)/c2.
Tích số của γ với m trong thuyết tương
đối hẹp không nên hiểu và truyền bá trong sách giáo khoa
theo nghĩa “khối lượng là một hàm số của vận tốc’’ và viết γm
dưới dạng m(v) = m0/√(1 –v2 /c2).
Hệ số γ là kết quả tuyệt vời của phép hoán chuyển Lorentz, là
chìa khóa mở đường cho thuyết tương đối với biết bao hậu quả
kinh ngạc mà E = γmc2 là dấu ấn ai cũng
nghe biết đến. Thuở ban đầu của thuyết tương đối cách đây trăm
năm, những ký hiệu như m(v) = m0/√(1 –v2
/c2) và m0 thường được dùng
cho khối lượng, nhưng ngày nay ta chỉ nên coi chúng như một giai
đoạn đã qua và nên nhớ rằng khối lượng bất biến với hoán chuyển
Lorentz mới có ý nghĩa vật lý. Dùng thuật ngữ chính xác và thuần
lý rất quan trọng trong việc truyền bá kiến thức cho học sinh,
sinh viên và những nhà khoa học khác ngành để cùng chia sẻ, nắm
bắt và nhận thức sâu sắc cái đẹp của thuyết tương đối.
Phạm Xuân Yêm
(10/11/2008)
Chú thích
Đã đăng trên Diễn Đàn
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Phạm Xuân Yêm
|