Tháng 8, 2005

 

  1. Bí ẩn của những người sống sót sau sét đánh
  2. Vật liệu cứng hơn kim cương
  3. Dùng sóng âm tìm bongke dưới lòng đất
  4. Lớp phủ nano giúp kính không đọng sương
  5. Vì sao ta ngáp ?
  6. Nhân trái đất quay nhanh hơn bề mặt
  7. Các hoạ sĩ Phục hưng cho thuỷ tinh vào màu vẽ
  8. Cửa tự động mở theo dáng người
  9. Đốt nước ra lửa
  10. Người Trung cổ ít bị sâu răng
  11. Lộ diện phòng ăn hoành tráng thời La Mã cổ đại
  12. Một ngày gấu Bắc cực bơi 74 km
  13. Phát kiến trị giá hàng triệu đôla của nhà khoa học bình dân
  14. Luyện thép từ nhựa thải
  15. Tàu con thoi hạ cánh thành công
  16. Lộ diện nhà thờ cổ đại ở Ai Cập
  17. Sai lầm của một số vĩ nhân
  18. Hệ thống quan sát hồng ngoại cho xe hơi
  19. Phát hiện cung điện của vua David
  20. Tìm hiểu chế độ ăn của người tiền sử
  21. Xốp cách nhiệt 'có thể đã va vào tàu con thoi'
  22. Sẽ sửa chữa tàu con thoi ngay trong vũ trụ

 

 

Bí ẩn của những người sống sót sau sét đánh

 

Khi sét đánh vào đám đông, nó chỉ trúng vào một người. Tại sao vậy? Người "được chọn" khác gì với những người kia? Cơ thể của người đó về sau thay đổi ra sao? Những nghiên cứu mới đây đã cho phép giải đáp một số, nhưng không phải là tất cả bí ẩn từ giông tố.

Sét săn đuổi chúng ta

Xác suất sét đánh trúng một người dường như không lớn, tối đa là 1/600.000. Nhưng khả năng đó tăng theo từng năm. Số người bị sét đánh ngày càng tăng lên, mặc dù bản thân sét phóng không thường xuyên hơn - vẫn khoảng 8 triệu lần mỗi ngày. Ở Mỹ, các hãng bảo hiểm thống kê số nạn nhân bị sét đánh, trung bình mỗi năm khoảng 600 người. Hiện tại con số này đã thay đổi đáng kể - tăng tới 1.500 người. Vậy có phải sét săn lùng con người như những con thú săn con mồi?

Đôi khi thực tế có thể so sánh sét với một “cơ thể sống”. Một giáo sư đã đánh giá sét như sau: “Những mũi chống sét dày đặc không làm sét lúng túng. Khi con đường thông thường đã bị chặn kín, sét tiến tới mục tiêu từ dưới, nó có đường vòng trong lòng đất”. Nhưng cho đến giờ người ta không hiểu được cái gì thu hút “cơ thể sống” này tới một cơ thể sống khác là con người. Có những nhà khoa học thậm chí nghiêm túc cho rằng đó là do testosterone - hormone sinh dục nam. Họ không tìm thấy cách giải thích khác bởi 86% những người bị sét đánh là đàn ông, nhưng lực hấp dẫn của hormone này ở chỗ nào thì họ lại không nói rõ được, mặc dù khẳng định trong đám đông sét nhất định chọn người có lượng testosteron cao hơn.

Mồ hôi sôi lên, giày bị cháy thành than

Một điều không kém bí ẩn là tác động của sét khi nó xuyên qua cơ thể. Tưởng như điện tích hàng chục triệu von và dòng điện hàng trăm ngàn amper sẽ phải giết chết con người trong khoảnh khắc. Nhưng một số người không hiểu sao lại sống sót, mà không phải chỉ có một vài người như vậy. Ở Mỹ con số này là gần 900 người/năm. Đó là thông báo của Hội những người sống sót sau khi bị sét và dòng điện đánh (LS&ESSI). Theo bác sĩ thần kinh Nelson Hendler (Mỹ), những người này rất muốn để người ta nghiên cứu họ, nhưng ít ai lao vào vấn đề này vì cho rằng sét và dây dẫn trần hoạt động như nhau. Hóa ra là không phải như vậy. Đôi khi sét không để lại dấu vết gì trên cơ thể, nhưng lại xuyên qua các bộ phận bên trong. Hoặc ngược lại, sượt qua bên ngoài nhưng làm cháy áo quần và giày. Đã có trường hợp khi trên cơ thể người mồ hôi sôi lên, tạo ra đám mây hơi bao bọc xung quanh. Những đồng xu trong túi quần một người bị nóng chảy ra, biến thành một cục đồng, ở một người khác chiếc răng vàng bị chảy, người khác nữa bị chảy chiếc dây chuyền trên cổ và khóa kéo trên quần... Nhưng họ vẫn sống sót.

Các dây thần kinh “cháy” như dây dẫn

Những nghiên cứu cho thấy con người thoát chết bởi vì mặc dù luồng điện phóng có công suất lớn khủng khiếp nhưng chỉ “xuyên” qua cơ thể trong vòng vài phần triệu giây. Và không phải lúc nào cũng kịp đốt cháy. Cường độ tác động phụ thuộc vào trở kháng của các cơ quan và mô, trung bình khoảng 700 OHM. Số OHM càng lớn, hậu quả càng nặng nề.

Theo bà Mary Enn Kuper, nhà nghiên cứu các chấn thương do sét và chuyên gia hồi sức của Mỹ, mạch điện của chúng ta - những sợi thần kinh, bị “cháy” đầu tiên. Trong trường hợp nhẹ nhất vỏ bảo vệ của các sợi này, về bản chất giống như lớp cách ly ở các dây dẫn, bị tổn thương. Tỉnh lại sau cơn sốc, nạn nhân thậm chí có thể không cảm thấy những thay đổi. Đôi khi tác động chỉ thể hiện sau vài tháng, khi các sợi thần kinh bắt đầu “đoản mạch” và tạo ra những chỗ tiếp xúc ở nơi lẽ ra không cần có. Điều đó giải thích một số vấn đề ở những người sống sót.

Thực tế nhiều thành viên của LS&ESSI than phiền về sự định hướng cử động kém, chứng co giật, ù tai, đôi khi không kiểm soát được tiểu tiện, trở nên cáu gắt hơn. Một người đàn ông bị sét đánh thậm chí còn cạo trọc đầu, không phải vì đó là mốt mà do không chịu nổi việc tóc thường xuyên “lay động”.

Nhưng cũng có những tác động tích cực được ghi nhận. Một người tên Ian Glovache từ Cộng hòa Séc cho biết về sự hồi phục đáng kinh ngạc khả năng tình dục đã mất đi trước khi bị sét đánh. Theo bà Mary Enn, có thể ở anh ta đã xảy ra sự “đoản mạch” trong tủy sống và xuất hiện sự liên kết có tác dụng khôi phục việc truyền các sung thần kinh đảm trách sự cương cứng.

Phomai chảy

Có trường hợp sét đánh thẳng vào đầu. Khi đó hậu quả rất nghiêm trọng, từ nổ mắt, hôn mê và tê liệt hoàn toàn đến những hành vi cư xử lạ lùng. Một trong những bệnh nhân của tiến sĩ Hedler sau khi bị sét đánh đã “hồi tưởng” lại tuổi thơ và có hành vi như một đứa bé 2 tuổi. Người khác thì bị mất trí nhớ ngắn hạn, còn anh ta phải ghi ra giấy việc để đồ vật của mình ở đâu, nếu không sẽ không thể tìm thấy chúng. Ảnh chụp cộng hưởng từ cho thấy sét ngắt một phần đáng kể não của những người này. Nhưng thường những tổn thương bị ở từng điểm và cùng một lúc ở vài chỗ. Các nhà nghiên cứu thậm chí có thuật ngữ “đầu phomai Thụy Sỹ”, với nghĩa là những chỗ bị tổn thương nằm phân tán, như các lỗ hổng trên phomai cứng. Không ai có thể nói trước “các lỗ hổng” xuất hiện ở đâu, nhưng rõ ràng những bất thường phụ thuộc vào vị trí của chúng.

Ông Harold Dean ở bang Missouri trở nên nổi tiếng vì ông không có cảm giác lạnh nữa. Thậm chí mùa đông ông chỉ mặc áo phông. Chị Elen Vard ở Anh thì lại có cái mũi thính như mũi... chó. Lần theo mùi, chị có thể tìm thấy các vật mà trước đó có người đã sờ vào. Còn Hunter Lunge ở Berlin lại có được khả năng toán học đáng kinh ngạc: nhân nhẩm những số sáu chữ số. Nói một cách khác sét có thể biến con người trở nên giống cơ thể đột biến. Nhưng thú vị hơn là hóa ra trong não người còn tiềm ẩn những khả năng để hoàn thiện.

Cầu chì mất tác dụng

Có một số người sau khi bị sét đánh đã có thể nhìn xuyên qua người khác. Một phụ nữ có thể xóa các sọc từ trên thẻ tín dụng và các vé tàu xe bằng cách sờ tay vào. Bà bị tổn thương một vài chỗ ở phần trán trong não. Một người đàn ông bị “lỗ hổng” ở phần thái dương trái nói rằng anh ta cảm thấy bức xạ điện từ. Trên thực tế anh xác định được trong dây dẫn đang có dòng điện hay không.

Thử nghiệm của các nhà khoa học cho thấy việc ngắt một vài phần não, đóng vai trò kiểu như cầu chì, có thể làm tăng khả năng làm việc của não. Nhưng ai biết được những chỗ nối mới hay “đoản mạch” trong mạng lưới thần kinh sẽ dẫn đến hậu quả thế nào? Có vẻ như đôi khi sét có khả năng “hàn” các tiếp điểm, như trong vi mạch của máy tính. Sét không chỉ làm tê liệt hệ thần kinh, mà nó còn làm nảy sinh những khả năng bất thường siêu tự nhiên.

(Theo ANTG)

 

Vật liệu cứng hơn kim cương

 
Kim cương là vật liệu tự nhiên cứng nhất.

Các nhà khoa học Đức đã tạo ra trong phòng thí nghiệm loại vật liệu cứng hơn kim cương, bằng cách ép vào nhau những "thanh nano" carbon.

Nguyên liệu để tạo nên ACNR (tên tắt của vật liệu siêu cứng này) là những phân tử carbon siêu khoẻ có tên gọi buckyball hay carbon-60. Chúng chứa 60 nguyên tử lồng vào nhau thành hình ngũ giác hoặc lục giác và tương tự như những quả bóng đá tí hon.

ACNR được tạo ra bằng cách nén ép các phân tử carbon-60 ở áp suất lớn gấp 200 lần áp suất khí quyển thông thường, đồng thời bị gia nhiệt lên 2226 độ C.

Các tính chất của vật liệu tạo ra được kiểm tra trên một cái đe bằng kim cương. Thiết bị này sẽ ép vật liệu giữa hai tấm kim cương bình thường, cho phép các nhà nghiên cứu tìm hiểu nó ở áp suất cao bằng bức xạ synchrotron - tia X cường độ cực mạnh sẽ tiết lộ cấu trúc của vật liệu.

Nhóm nghiên cứu nhận thấy ACNR đậm đặc hơn 0,3% so với kim cương thông thường và chịu đựng áp suất tốt hơn bất cứ vật liệu nào được biết tới nay.

Natalia Dubrovinskaia, thuộc Đại học Bayreuth, Đức, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết vật liệu mới có tiềm năng ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp. Vì bền vững ở nhiệt độ rất cao, nên ACNR có thể tốt hơn kim cương thông thường trong việc khoan sâu và trong vai trò vật liệu mài mòn đánh bóng. Dubrovinskaia cũng tin rằng việc sản xuất hàng loạt vật liệu siêu bền này là dễ dàng.

31/8/2005, Thuận An (theo NewScientist)

 

Dùng sóng âm tìm bongke dưới lòng đất

 

Một kỹ thuật có tên gọi "trống đất", thường được dùng để tìm kiếm các bồn chứa dầu, giờ đây đang được cải tiến để phát hiện nơi ẩn náu dưới lòng đất của những kẻ khủng bố, hoặc các kho vũ khí.

Kỹ thuật do Silicon Graphics Inc, hợp tác với Phòng thí nghiệm Bộ tư lệnh chiến đấu quân đội Mỹ ở Fort Huachuca, Arizona (Mỹ) phát triển. Cuộc họp báo công bố kỹ thuật này sẽ được tổ chức vào tháng tới.

Hệ thống, được gọi là Chương trình xác định mục tiêu ngầm, có thể sẽ là một công cụ hữu ích cho quân đội cũng như cho các chuyên gia an ninh, hãng Silicon Graphics cho biết.

"Công nghệ này chưa thể phát hiện người, nhưng nó có thể giúp chúng ta hình dung tổng quan về những thứ dưới mặt đất", Greg Estes, phó chủ tịch tiếp thị của hãng cho biết. "Về mặt an ninh quốc gia, hệ thống này có thể được dùng trong việc tìm kiếm những đường ngầm xuyên biên giới hoặc các kho vũ khí".

Trước tiên, hệ thống giải phóng các sóng âm qua một vùng cho trước, nhờ kích hoạt thuốc nổ hoặc các xung khí. Các sensor sẽ đọc những âm thanh dội lại, rồi chuyển đến một máy tính được trang bị đặc biệt để phân tích những mô hình dao động phản xạ, từ đó xác định độ sâu và đặc tính của vật thể mà sóng âm đập vào. Chiếc máy hiện tại khá cồng kềnh, nhưng hãng chế tạo hy vọng sẽ phát triển những version nhỏ hơn để có thể đưa ra chiến trường trên xe quân sự.

Công nghệ mới được cải tiến từ những hệ thống dùng để tìm kiếm dầu ở độ sâu 32 đến 320 kilomét dưới mặt đất, nhưng các nhà nghiên cứu đang tìm cách để khiến nó hiệu quả ngay cả ở độ sâu hàng nghìn kilomét và trên khoảng địa hình rất rộng.

T. An (31/8/2005, theo Discovery)

 

 

Lớp phủ nano giúp kính không đọng sương

Bức tranh hoa sen nằm giữa hai nửa kính - bên trái có lớp phủ chống tạo sương, và bên phải không phủ.

Hãy hình dung những tấm kính không bao giờ đọng hơi nước hoặc phản xạ ánh sáng. Các nhà khoa học Mỹ tin rằng họ đã có trong tay công nghệ để biến nó thành hiện thực, cùng với những chiếc kính bảo hộ, kính cửa ôtô, gương nhà tắm... không phản quang và không đọng nước. 

Michael Rubner từ Viện công nghệ Massachusetts ở Boston và cộng sự đã phát triển một lớp phủ nano chỉ phản xạ 0,2% ánh sáng đập tới. Con số này nhỏ hơn nhiều so với mức phản xạ 2-3% của các lớp phủ chống phản xạ ánh sáng hiện tại.

Lớp phủ mới cũng hút các giọt nước nhỏ liti vốn thường gây ra hiện tượng đọng sương. Nó bao gồm nhiều lớp sợi polymer và các hạt thuỷ tinh nano, tạo thành một mạng lưới chi chít các lỗ rỗng nhỏ. Nước được hút vào những lỗ rỗng này, tương tự như kiểu hút nước của bọt biển. Kết quả là tạo ra một màng nước mỏng (thay vì một số giọt nước nằm rải rác) không tán xạ ánh sáng và làm tối kính.

Rubner cho biết các hạt nano này có đường kính chỉ 7 nanomét (nhỏ hơn 100 lần so với bước sóng ánh sáng nhìn thấy) nên nó giữ cho kính trong suốt.

Ngoài ra, quy trình chế tạo cũng rất đơn giản. Các nhà khoa học nhúng bề mặt cần phủ vào một loạt dung dịch, được tích điện âm dương xen kẽ để giúp dính các lớp với nhau. Sau đó họ nung lớp phủ này ở 500 độ C để làm nó cứng hơn và tăng cường sức kháng trầy xước.

Công đoạn này đồng nghĩa rằng hiện tại lớp phủ chỉ có thể ứng dụng cho những bề mặt (chẳng hạn kính) chịu được nhiệt độ cao. "Chúng tôi đang tiếp tục nghiên cứu để áp dụng lớp phủ cho những vật liệu có nhiệt độ nóng chảy thấp như nhựa", Rubner nói.

Cách đây không lâu, các nhà khoa học của Viện Vật lý ứng dụng và Thiết bị khoa học, thuộc Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam cũng đã chế tạo ra sơn tự làm sạch TiO2, mà nếu phủ lên kính sẽ giúp kính không đọng nước.

T. An (31/8/2005, theo Nature, 31/8/2005)

 

 

Vì sao ta ngáp ?

Ngáp là một hoạt động vô thức nhưng rất phức tạp, gửi gắm nhiều thông điệp mà chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ.

Chẳng cần phải định nghĩa như từ điển tiếng Việt: "ngáp là há rộng miệng thở hắt ra thành hơi dài", thì ai cũng biết ngáp là thế nào rồi. Vì ai mà chẳng ngáp và trông thấy mọi người ngáp. Đó là một hành động vô thức, nằm ngoài sự điều khiển của con người. Bình thường, muốn ngáp cũng chẳng ngáp được, và khi cơ thể "đòi" ngáp, cố "đàn áp" nó cũng không xong.

Các nhà khoa học đã kết luận chỉ mới 14 tuần tuổi, các cô cậu bé đã ngáp trong bụng mẹ rồi. Người ngáp nhiều, vài chục lần trong ngày, vài trăm lần cũng nên. Cá biệt có người còn mắc bệnh ngáp, nghĩa là ngáp vô hồi kỳ trận, được ghi trong kỷ lục Guinness.

Cái ngáp, tuy tầm thường, phổ biến và kéo dài không quá 6 giây lại chẳng đơn giản chút nào. Nó nói lên nhiều ý nghĩa, mang theo nhiều thông điệp và liên quan đến nhiều trạng thái của cơ thể. Bởi thế không ngạc nhiên, nó từng là trung tâm nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học, từ sinh lý học, tâm lý học, bệnh lý học... mới đây có một cuộc hội thảo quốc tế riêng về nó.

Vì sao ta ngáp?

Một câu hỏi thú vị. Quanh cái ngáp vô duyên ấy có rất nhiều giả thuyết. Ai cũng biết người ta thường ngáp khi mệt mỏi, làm việc quá sức, bị stress... khi có tâm trạng chán nản, muốn thoát khỏi tình thế buồn bực mà không cưỡng lại được, khi giấc ngủ kéo đến mà chẳng được ngả lưng.... Các cụ già cũng "tranh thủ" ngáp lần cuối trước khi từ giã cuộc đời.

Đó là lý do, còn nguyên nhân?

Có giả thuyết cho rằng, khi ngồi lâu ở một tư thế, trong máu tích tụ khí cabonnic làm ta uể oải, cần phải thải ra. Thần kinh não nhận được tín hiệu, bấm nút ra lệnh, thế là ngáp dài để loại trừ chất khí đó đi. Và liền sau cái ngáp thở ra ấy là cái hít vào thật sâu một lượng oxy tươi mới qua phổi, vào máu, lên não, nhờ thế, ngáp xong phần nào tỉnh táo trở lại.

Nhưng có giả thuyết lại cho rằng ngáp là cách cơ thể tự điều chỉnh nhiệt độ máu một cách tức thời. Lại có giả thuyết cho rằng các trạng thái tình cảm, tâm lý như buồn bực, giận dỗi... làm xuất hiện trong não hàng loạt hóa chất truyền dẫn thần kinh như serotinin, dopamin, oxit nitric... khi sinh ra quá nhiều, chúng cần được giải phóng bằng những cái ngáp, và hàm lượng những chất này càng nhiều, tần suất ngáp càng tăng.

Với những giả thuyết trên chúng ta khó mà giải thích được hiện tượng liên quan đến ngáp. Chẳng hạn tại sao ngáp lại gần như một hiện tượng truyền nhiễm, thấy người khác ngáp là tự dưng ta cũng ngáp theo. Tuy chưa thống nhất được các giả thuyết, người ta vẫn tìm hiểu các cơ tham gia vào việc ngáp. Khi ngáp, các cơ mặt, cơ lưỡi và cơ cổ co mạnh, áp lực trong khoang miệng đột ngột tăng lên. Áp lực này tác động lên khoang mũi, ngăn đường thoát của nước mắt xuống mũi, do đó nước từ tuyền lệ tràn ngược nên nước mắt luôn là "bạn đồng hành" của ngáp.

Thông điệp từ cái ngáp

Ngáp là vị sứ giả không lời, thẳng thắn, vô tư và... bất lịch sự của cơ thể. Nó không biết galăng, màu mè, nói dối. Nếu nó thấp thoáng trong buổi thuyết trình, nó nhắn gửi đến diễn giả: “Em ớn lắm rồi, bác nhanh chóng kết thúc đi”. Nếu bạn thấy nó chập chờn trên mặt anh lái xe taxi đang lái cho bạn, nhất là trên những đoạn đèo cao vực thẳm, quanh co, bạn hãy lịch sự bảo anh ta nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại sự tỉnh táo....

Chuyện mới phát hiện đó là "ngáp gắn liền với sự ham muốn chuyện gối chăn". Năm 1980, Wolter đọc được thông tin từ Canada rằng những bệnh nhân được điều trị bằng thuốc chống trầm cảm clomipramin, prozac thì cả đàn ông lẫn đàn bà, đều có tác dụng phụ là ngáp lên ngáp xuống, và sau đó nhu cầu tình dục tăng lên bất thường. Chắc chắn giữa hai hiện tượng đó có sự liên quan. Ông bắt đầu tìm hiểu cơ chế của sự ngáp, không về khía cạnh sinh lý học mà về tâm lý học. Để ý đầu tiên của ông là trong các cuốn phim về động vật hoang dã, vì sao những con khỉ đầu đàn, lắm cung tần mỹ nữ và hàm lượng hormone giới tính nam là testosterone luôn cao, sinh hoạt tình dục nhiều lại rất hay ngáp? Sử Pháp cũng ghi Hoàng đế Napoleon có đặc điểm là ngáp nhiều, đồng thời là cũng người đam mê tình dục.

Ông thử cho 200 người đàn ông xem những đoạn phim "tươi mát" hay nghe những đoạn văn thuật chuyện phòng the, họ đều... ngáp. Hóa ra ngáp cũng ba, bảy đường. Cái ngáp vì chán, vì mệt, vì buồn ngủ hoàn toàn khác với cái ngáp ngay trước khi làm chuyện ái ân. Vậy là nhờ phát hiện của Wolter, ngáp còn mang theo một thông điệp mà trước đây chưa ai biết đến.

1/9/2005, (Theo Sành Điệu)

 

Nhân trái đất quay nhanh hơn bề mặt

 

Khối cầu khổng lồ bằng sắt và nickel nằm ở tâm trái đất đang quay nhanh hơn lớp vỏ bề mặt của hành tinh. Nghiên cứu mới đây đã xác nhận dự báo của các nhà khoa học.

Phát hiện được tìm thấy dựa trên sự phân tích các cặp động đất xảy ra gần như cùng vị trí trên trái đất nhưng tại những thời điểm khác nhau. Trên dụng cụ đo địa chấn, tín hiệu dạng sóng của các cặp đôi này gần như giống hệt nhau.

Khi động đất xảy ra, sóng địa chấn của nó có thể lan truyền xuyên qua trái đất và bề mặt trên toàn cầu. Các nhà khoa học đã phân tích 18 cặp sóng như vậy - một số xảy ra cách nhau tới 35 năm - từ những trận động đất xảy ra ở bờ biển Nam Mỹ, nhưng được ghi nhận tại các trạm gần Alaska.

Nhân trái đất gồm một lõi trong cùng rắn và phần ngoài lỏng, tất cả đều được cấu tạo hầu hết từ sắt. Lõi rắn bên trong có độ đặc không đều, một số điểm đậm đặc hơn các điểm khác, và điều này có thể hoặc làm tăng tốc hoặc làm chậm lại sóng chấn của trận động đất khi nó đi qua. Vì thế, các nhà nghiên cứu phỏng đoán nếu lõi trong cùng của trái đất quay nhanh hơn phần còn lại của hành tinh, thì sóng phát ra từ cặp đôi động đất sẽ đi vào và thoát ra ở điểm khác nhau của nhân, mặc dù xuất phát từ gần như cùng một điểm trên bề mặt.

Bằng việc phân tích những thay đổi nhỏ trong thời gian di chuyển và hình dạng sóng cho mỗi cặp đôi, các nhà nghiên cứu kết luận rằng lõi trong cùng của trái đất quay nhanh hơn bề mặt của nó khoảng 0,3 - 0,5 độ mỗi năm.

Con số này nghe có vẻ không lớn, nhưng lại là rất nhanh so với chuyển động của vỏ trái đất - thường trượt khoảng vài centimét mỗi năm so với lớp manti bên dưới.

Sự chuyển động của vỏ trái đất được gọi là kiến tạo mảng. Nó khiến cho khoảng một chục mảng thạch quyển lớn dịch chuyển và gây ra hầu hết các trận động đất. "Chúng ta đang nói tới sự dịch chuyển gấp khoảng 50.000 lần chuyển động kiến tạo mảng", Xiaodong Song, một nhà địa chất tại Đại học Illinois ở Urbana-Champaign, tác giả của nghiên cứu cho biết.

Song cho biết sự khác biệt về tốc độ quay của nhân trong cùng có thể ảnh hưởng đến tốc độ quay của trái đất và liên quan đến hoạt động của vệ tinh, tên lửa cũng như tàu vũ trụ.

T. An (29/8/2005, theo LiveScience)

 

Các hoạ sĩ Phục hưng cho thuỷ tinh vào màu vẽ

Màu đỏ rực rỡ trên chiếc áo dài của Thánh Catherine là do thủy tinh mang lại.

Bằng cách nào các bức vẽ của Tintoretto và những danh họa Phục hưng khác ở vùng bắc Italy toả sáng kỳ lạ như vậy? Sử dụng một kính hiển vi điện tử, Barbara Berrie, nhà khoa học bảo tồn tại Viện bảo tàng nghệ thuật quốc gia Italy, đã khám phá ra bí mật của họ: Các mảnh thuỷ tinh tí hon được trộn với bột màu. 

"Vượt ra ngoài những khuôn mẫu thực hành thông thường và đưa các vật liệu thuộc lĩnh vực khác vào tranh vẽ, các họa sĩ đại tài của thời Phục hưng đã tạo ra một bảng màu mang lại cho họ danh tiếng ngay lập tức và lâu dài như là những nhà sáng chế màu vĩ đại", Berrie nói.

Từ lâu, các nhà khoa học cho rằng các họa sĩ, những nhà làm kính và thiết kế gốm ở Bắc Ý đều có cách riêng để pha chế bột màu và thuốc nhuộm, và có lẽ họ lấy các thành phần của bột màu từ những người bào chế thuốc, giống như hầu hết người ta vẫn làm vậy ở châu Âu. Song Louisa Matthew, trưởng khoa Nghệ thuật thị giác tại Đại học Union ở Schenectady, New York tìm thấy bằng chứng rằng Venice đã phát triển một thị trường thuốc nhuộm và bột màu đặc biệt trước các vùng khác của châu Âu tới một thế kỷ.

Berrie tìm thấy một chút bột thuỷ tinh, có độ dày chỉ bằng phần nghìn centimét trong hai bức họa của Lorenzo Lotto - một trong chiếc áo dài đỏ mà Thánh Catherine mặc, và một trong chiếc áo khoác màu đỏ cam của Thánh Joseph trong một bức tranh Giáng sinh. Thủy tinh cũng có mặt trong bột màu vàng được sử dụng trong một bức họa của Tintoretto về Chúa Jesus tại Biển Galilee.

"Họ cũng dạy tôi một bài học: Hãy thử tìm kiếm bên ngoài những gì ta biết và những gì ta nghĩ", Berrie nói.

T. An (theo AP)

 

Cửa tự động mở theo dáng người

Khác với các loại cửa tự động thông thường - mở toang cả cánh khi có ai đó đi qua. Loại cửa tự động của hãng Tanaka (Nhật) chỉ hé mở đủ để cho thân người đi lọt. Nhờ vậy, nó sẽ hạn chế tối đa sự mất nhiệt trong phòng điều hoà, và ngăn bụi bẩn từ ngoài lọt vào. 

Cửa tự động Tanaka bao gồm những thanh mỏng xếp cạnh nhau và gắn vào mỗi bên cánh cửa. Hai dãy thanh như vậy nằm ở hai bên, khớp với nhau thành cánh cửa hoàn chỉnh. Mỗi thanh có một thiết bị cảm biến. Khi ai đó đứng trước cánh cửa này, sensor sẽ xác định xem cửa cần mở độ rộng bao nhiêu để cho người đó đi lọt.

Có thể bạn sẽ tự hỏi điều gì hay ho ở loại cửa chỉ đủ cho một người ra vào này: Nó làm giảm thiểu lượng nhiệt hoặc không khí điều hoà thoát ra ngoài toà nhà, cũng như tối thiểu hoá sự xâm nhập của phấn hoa các chất ô nhiễm khác từ bên ngoài. Công nghệ thiết kế này mới chỉ ở giai đoạn đầu, song các chuyên gia Nhật Bản đã một lần nữa chứng tỏ rằng họ lại đi trước thế giới ít nhất 10 năm trong lĩnh vực phát minh.

T. An (theo Gizmodo)

 

Đốt nước ra lửa

Nếu gọi loại đèn thắp sáng bằng dầu là đèn dầu thì loại đèn trang trí Aqueon do Công ty Heat & Glo (Mỹ) chế tạo có lẽ sẽ được gọi là đèn nước, vì nó được thắp sáng bằng nước.

Không có gì kỳ lạ trong cơ chế hoạt động của đèn Aqueon. Đầu tiên, nước được đổ vào bình chứa của đèn và một dòng điện 220v sau đó sẽ tách các nguyên tử hydro và ôxy trong phân tử nước ra. Hydro sau đó được đốt cháy và ôxy được bổ sung vào ngọn lửa hydro để tăng độ phát sáng. Đèn nước phát ra lửa nhưng không xả ra khói, những gì được thải ra ngoài trong quá trình đốt nhiên liệu chỉ là hơi nước nên hoàn toàn không gây ô nhiễm. Sản phẩm sẽ được bán rộng rãi vào mùa giáng sinh năm nay.

 (Theo Thế giới mới, Gzimodo)

 

Những sinh vật kỳ lạ ở Angkor

 

Ai đã từng đến thăm Angkor đều không thể bỏ qua nụ cười Bayon huyền bí và vũ điệu Apsara mê hồn trên các phù điêu đá. Nhưng rất ít người nhận thấy Angkor còn ẩn giấu những bí mật khác: tượng của những sinh vật kỳ lạ, có thể một thời từng sống trong rừng đại ngàn đất nước Chùa tháp.

Tượng Garuda.

Chiếm một tỷ lệ lớn trong hàng nghìn bức điêu khắc đá ở Angkor là những nhân vật có nguồn gốc từ đạo Hindu, tôn giáo đã du nhập vào Campuchia từ thời kỳ đầu của nền văn minh do người Khmer xây dựng. Điển hình về vẻ đẹp và sự độc đáo có thể kể đến tượng Garuda với đầu, cánh và móng vuốt của đại bàng. Là vua của các loài chim và kẻ thù của rắn, Garuda là một trong ba vị thần mang hình dáng động vật uy quyền và thường xuất hiện nhất trong các truyền thuyết của đạo Hindu.

Tượng Garuda có thể được khẳng định là sản phẩm của trí tưởng tượng thuần tuý, dựa trên việc kết hợp một số đặc điểm bề ngoài của người và đại bàng. Nhưng với tượng rắn bảy đầu Naga, một giải thích tương tự có lẽ sẽ không dễ được chấp nhận, vì nhiều người tin rằng Naga thực sự tồn tại.

Tượng Naga.

Naga là con vật được nhắc đến cả trong đạo Phật và đạo Hindu. Du khách đến Angkor có thể chiêm ngưỡng những bức tượng Naga rất tinh xảo trên đường dẫn vào Angkor Wat. Theo truyền thuyết, Naga không phải là con vật bình thường. Ngoài 7 cái đầu và kích thước khổng lồ, Naga còn có phép thuật để biến hình thành con người. Nó là kẻ sát nhân khủng khiếp, có thể giết người bằng cách phun nọc độc hoặc cuốn chặt lấy nạn nhân và bẻ gẫy hết xương chỉ trong nháy mắt.

Đối với nhiều người dân vùng hạ lưu sông Mekong, Naga vừa là loài vật linh thiêng, vừa là mối đe dọa có thật. Hàng năm, vào ngày lễ Bang Fai Phaya Nark, hàng trăm nghìn người dân địa phương và du khách lại đổ về bờ sông để chứng kiến một phong cảnh ngoạn mục: vô số những quả cầu lửa bay lên từ mặt sông dọc theo biên giới Lào - Thái. Một số người dân trong vùng giải thích rằng những quả cầu phát sáng đỏ này là trứng của Naga, nổi lên khỏi mặt nước để chuẩn bị nở thành rắn con. Số khác tin rằng đó là một loại pháo hoa do Naga bắn lên để mừng thời điểm kết thúc tuần chay của đạo Phật. Nhưng dù theo cách nào đi nữa, người ta vẫn tin rằng Naga là có thật và đang sống ở đâu đó trên dòng sông Mekong. Năm 2002, một đoàn thám hiểm của kênh truyền hình Discovery sau nhiều ngày tìm hiểu những chứng cứ do người dân cung cấp và nói chuyện với các nhân chứng đã kết luận rằng sự tồn tại của một loài rắn khổng lồ trong các cánh rừng Đông Nam Á có thể là sự thật.

Đây phải chăng là thằn lằn gai sống?

Không phải mọi sinh vật được mô tả trên những điêu khắc của Angkor đều có nguồn gốc từ những truyền thuyết của đạo Phật và đạo Hindu. Sau một hồi luồn lách dưới những tán sung cổ thụ và chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ bí của Ta Prohm, còn được gọi là lăng Hoàng hậu, ở gần lối ra, nếu chịu khó để ý du khách sẽ nhìn thấy một phù điêu mô tả một loài động vật với những đặc điểm rõ ràng đến mức bất cứ ai có một chút kiến thức về động vật thời cổ đại đều nhận ra ngay đó là thằn lằn gai sống (Stegosaurus). Con vật có một cái cổ nhỏ, 4 chân ngắn và đuôi dài. Dọc theo sống lưng là những chiếc gai đặc trưng của Stegosaurus được chạm khắc rõ ràng và tỉ mỉ. Đây là bức khắc duy nhất tìm thấy ở Ta Prohm có hình ảnh loài vật lạ lùng này.

Thằn lằn gai sống và những loài khủng long khác cùng thời với nó đã tuyệt chủng rất lâu trước khi Angkor bắt đầu được xây dựng (thế kỷ thứ 9). Vậy phải giải thích như thế nào về hình ảnh Stegosaurus trên tường Ta Prohm. Một số giả thuyết cho rằng vào thời kỳ đó, đã có những loài vật giống khủng long sống ở vùng đất được chọn để xây dựng Angkor. Giả thuyết này dựa trên những phát hiện gần đây về những loài động vật giống khủng long được tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới. Năm 1999, tại hồ Murray (Papua New Guinea), người dân đã nhìn thấy một sinh vật dài khoảng 2 mét với nhiều đặc điểm được mô tả gần giống thằn lằn gai sống. Còn tại Congo, rất nhiều người, bao gồm cả nhà chức trách địa phương khẳng định đã nhìn thấy một động vật khác thường, to bằng con voi nhưng lại có một chiếc cổ dài và linh hoạt, đầu nhỏ và chân ngắn, những đặc điểm của khủng long ăn thực vật. Như vậy, rất có thể bức phù điêu ở Ta Prohm mô tả một động vật giống khủng long, sau đó đã tuyệt chủng vì một lý do nào đó.

Một giả thuyết khác cho rằng, người dân trong vùng đã đào được những hoá thạch của thằn lằn gai sống tại địa điểm xây dựng và cho khắc hình của nó lên đá. Tuy nhiên, dù chấp nhận cả hai khả năng trên thì vẫn còn một câu hỏi chưa có lời giải: mục đích thật sự của người Khmer khi tạo ra bức phù điêu này là gì, vì nó không hề liên quan đến các truyền thuyết tôn giáo, cũng không xuất hiện trong bất cứ câu chuyện nay ghi chép nào về cuộc sống thường ngày hay các sự kiện lịch sử diễn ra trước và trong thời điểm xây dựng Angkor.

Khoa học và Đời sống (theo Unexplained Earth)

 

Người Trung cổ ít bị sâu răng

Những nông dân thời Trung cổ có hàm răng tốt hơn người dân ngày nay, do họ phải nhai kỹ thức ăn hơn.

Giáo sư Wolfgang Arnold, tại Đại học Witten/Herdecke, Đức, đã nghiên cứu những dấu vết còn lại của những người được chôn trong khoảng thế kỷ 5-9. Ông tìm thấy những người này có hàm răng tốt hơn hậu duệ của họ, cho dù chẳng bao giờ đánh răng.

"Hình ảnh những người thời Trung cổ có hàm răng thối rữa là sai lầm. Hồi đó cũng có đồ ngọt và mặc dù không có bàn chải đánh răng, nhưng không một người nào có dấu hiệu sâu răng".

"Những món ăn thời đó gồm rất nhiều rau sống và ngũ cốc mà cũng chẳng có sữa để trộn lẫn, nên sẽ cần phải nhai rất nhiều, và đó là lý do vì sao tình trạng sâu răng bị giảm đi rất nhiều".

M.T. (theo Ananova)

 

Lộ diện phòng ăn hoành tráng thời La Mã cổ đại

 

Mô hình tái tạo phòng ăn cùng chiếc tràng kỷ hình bán nguyệt.

Một bằng chứng ấn tượng về lối ăn chơi xa xỉ của người La Mã cổ đại mới được phát hiện tại một khu biệt thự ở miền nam Italy.

Cuộc khai quật nơi ở của một dòng họ quý tộc tại Faragola, Puglia, đã làm lộ diện một kiểu bàn ăn cổ xưa của người La Mã - chiếc tràng kỷ hình bán nguyệt - nơi các vị khách quan trọng ngồi thưởng thức bữa tiệc xa hoa. Cùng với một vòi nước ở giữa để cung cấp nước sạch cho bữa ăn, chiếc tràng kỷ có nền xây bằng gạch và được phủ những tấm đệm cho khách an toạ. Trang trí xung quanh là hình khắc những nàng tiên nhảy múa, cùng các mảnh đá cẩm thạch nhiều màu sắc được ốp xen kẽ.

"Chỉ còn vài bàn ăn kiểu đó sót lại cho đến nay, nhưng không có cái nào được trang trí tinh xảo và còn nguyên vẹn như cái được tìm thấy ở Faragola", nhà khảo cổ Giuliano Volpe tại Đại học Foggia, cho biết.

Kiểu bàn ăn hình bán nguyệt này cũng xuất hiện trong bức hoạ Bữa tiệc cuối cùng ở nhà thờ St. Apollinaire, ở Ravenna.

"Kiểu ăn đó bắt nguồn từ thói quen ăn tiệc ngoài trời - ban đầu là những tấm đệm đặt trên mặt đất - sau đó đã được đưa vào trong nhà. Tôi cho rằng ban đầu nó chỉ được xem như cách ăn thoải mái, tiện lợi hơn so với kiểu bàn ăn hình chữ nhật truyền thống, nhưng về sau lại trở thành một mốt thời thượng", giáo sư cổ điển Katherine Dunbabin tại Đại học McMaster ở Canada nhận định.

Kiểu bàn ăn này chỉ xuất hiện trong những gia đình giàu có và đủ nhàn rỗi để tổ chức những bữa tiệc xa hoa.

Nền tảng phòng ăn được khai quật.

Sự xa xỉ lộng lẫy bao trùm toàn bộ khu biệt thự này ở Faragola. 

Được xây dựng vào thế kỷ thứ 4, khu dinh thự này đạt tới đỉnh điểm của sự hưng thịnh vào thế kỷ 5. Thuộc về dòng họ nghị sĩ Cornelii Scipiones Orfiti, công trình nổi bật bởi những bồn tắm hơi rộng lớn và đắt tiền, với những phòng tắm nóng, ấm và lạnh.

Nhưng căn phòng hoành tráng nhất chính là phòng ăn. Chủ nhà sẽ ngồi ở bên phải của chiếc tràng kỷ bán nguyệt, trong khi các vị khách quan trọng nhất sẽ ngồi ở phía bên trái, đối diện với chủ nhà.

Không quá 5-7 vị khách danh dự được ngồi trên chiếc tràng kỷ này. Tại đó, họ có thể xem các nhạc công, vũ nữ, diễn viên xiếc biểu diễn phía trước, và chiêm ngưỡng cả những "tấm thảm thuỷ tinh" - những mảng kính gắn ngà voi và đá hoa cương, nằm giữa sàn nhà bằng đá cẩm thạch nhiều màu sắc.

"Việc trưng bày những tác phẩm nghệ thuật quý giá như vậy trên sàn nhà thực chất là một cách phô trương của cải đầy thách thức", Volpe cho biết.

Làm giàu nhờ việc sản xuất lương thực, nhà Orfiti thường đến sống ở khu biệt thự này vào mùa thu hoạch và quản lý mọi đất đai từ đó. Có thể do khủng hoảng kinh tế, cuộc sống dư dật của họ kết thúc vào thế kỷ 6 và ngôi biệt thự bị bỏ hoang, lãng quên.

Minh Thi (theo Discovery)

 

Một ngày gấu Bắc cực bơi 74 km

 

Các nhà khoa học lần theo thẻ quan trắc gắn trên mình một gấu trắng Bắc cực, và phát hiện thấy nó bơi ít nhất 74 km mỗi ngày, thậm chí có thể tới 100 km. Đây là bằng chứng đầu tiên cho thấy gấu có thể băng qua khoảng cách xa như vậy trong nước.

Mỗi năm, gấu thường bơi hàng nghìn kilomét để kiếm mồi, chẳng hạn hải cẩu và từ đó kéo theo những giai thoại về chúng, với việc bơi từ đảo này đến đảo khác, hoặc băng qua các vịnh rộng lớn.

Tuy nhiên, người ta từng nghi ngờ về việc liệu gấu có đi bộ trên băng như một phần của lộ trình, hoặc quá giang trên một tảng băng trôi nào đó.  

"Điểm mới ở lần này là chúng tôi có dữ liệu chỉ ra thời gian con gấu ở trong nước", Jon Aars, một nhà nghiên cứu tại Viện Cực Nauy, cho biết. "Đây là lần đầu tiên một chuyến bơi xa như vậy được ghi nhận bởi thiết bị đo vệ tinh gắn trên gấu Bắc cực".

Con gấu cái, được trang bị thiết bị định vị vệ tinh, đi vào vùng nước ở phía đông đảo Spitsbergen, vùng nước Bắc cực thuộc Nauy, vào sớm ngày 20 tháng 7, bơi về phía đông bắc và xuất hiện trên đảo Edgeoya một ngày sau đó. Một thiết bị cảm biến trên cổ gấu sẽ phát ra những tín hiệu khác nhau khi nó ở trong vùng nước biển mặn, so với trên đất liền hoặc trên băng.

Aars cho biết con gấu có thể đã bơi gần 100 km vì nó hầu như không đi theo đường thẳng giữa hai điểm ở cách xa nhau 74 km này. Tốc độ trung bình của con vật là 3-4 km/giờ, tương đương với một người đi bộ.

T. An (theo Reuters)

 

Phát kiến trị giá hàng triệu đôla của nhà khoa học bình dân

 

Ông Thanh đang trình bày quy trình sản xuất sơn lót chống cháy.

Ông Nguyễn Văn Thanh, chủ nhân của những sản phẩm ấn tượng như xốp chống cháy, bột chống cháy rừng..., mới đây lại trình lãnh đạo Bộ Khoa học Công nghệ ba kết quả nghiên cứu mới, mà nếu được đưa vào ứng dụng sẽ có khả năng tạo bước đột phá cho xuất khẩu đồ gỗ và mang lại hàng triệu đôla.

Sản xuất ván ép, gỗ lát sàn nhà là hướng ưu tiên đầu tư của Chính phủ để xuất khẩu, giải quyết nguồn nguyên liệu rừng trồng. Nhưng đến nay, gần như tất cả các sản phẩm gỗ ván ép của Việt Nam cũng như ở Đông Nam Á không xuất được sang EU, Mỹ vì không đáp ứng được các tiêu chuẩn về kỹ thuật.

Làm sao để ván ép, đồ gỗ của Việt Nam không còn chất gây ung thư formaldehyde, ure, không biến dạng khi gặp nước, không dẫn lửa, mối mọt và nứt tách..., được chấp nhận rộng rãi hơn trên thế giới? Câu hỏi này ám ảnh ông Thanh.

Sau nhiều tháng miệt mài nghiên cứu cuối cùng, ông cũng cho ra "lò" ba sản phẩm: Nhựa nhiệt rắn làm ván ép không có chất gây ung thư và chống cháy; Sơn lót chống cháy TLS và Công nghệ xử lý gỗ rừng trồng, biến gỗ rừng sản xuất thành gỗ cứng nhóm II.

Sản phẩm nhựa nhiệt rắn

Với sản phẩm nhựa nhiệt rắn của ông Thanh, các sản phẩm ván ép đã nâng cao được chất lượng, đi trước cả nghiên cứu của nhiều nước tiên tiến trên thế giới.

Kết quả phân tích mẫu nhựa nhiệt rắn của Công ty cổ phần giám định VINACONTROL, đơn vị chuyên thẩm định hàng hóa xuất nhập khẩu ngày 5/8/2005 cho thấy, hàm lượng formaldehyde chỉ chiếm 62 phần triệu (thấp hơn rất nhiều tiêu chuẩn của Mỹ); không phát hiện: chì, arsen, thủy ngân, cadmium, Phenol; ngâm trong nước 30 ngày không biến dạng, không trương nở, không bị tách lớp, trái lại càng rắn chắc hơn.

VINACONTROL cũng đã kết luận: Ván ép chống cháy không gây độc hại cho người sử dụng và môi trường. Trong khi đó, keo MELAMINE RESIL BR-240 của một công ty ở Đài Loan hiện đang được dùng để sản xuất đồ gỗ tại Việt Nam có hàm lượng Formaldehyde tự do lên đến gần 15%; làm lượng chất rắn 50 ± 2%; khi sử dụng phải trang bị bảo hộ lao động, không được ngửi, tránh tiếp xúc trực tiếp với da, mắt.

Ông Thanh tâm sự: "Tôi không muốn nhìn thấy chính thị trường nước ta tiếp tục bị đồ gỗ của nước ngoài chiếm lĩnh, mà chỉ muốn nó vượt qua được hàng rào kỹ thuật của EU, Mỹ để mở tiếp cánh cửa thị trường này, mang ngoại tệ về cho đất nước".

Sơn lót chống cháy

Việc tìm và sản xuất thành công loại sơn lót chống cháy (dung môi pha bằng nước) cũng là bước tiến quan trọng đánh dấu thành công của ông. Điều đặc biệt là sản phẩm sơn lót TLS được sản xuất ra trong thời gian rất ngắn, có thành phần... nước lã nhưng vẫn mang đặc tính vượt trội hơn bất kỳ loại sơn lót nhập khẩu nào nhờ đặc tính chống cháy, lại hoàn toàn không gây độc hại. Độ thẩm mỹ của TLS ngang với sơn lót mà các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ đang nhập khẩu.

Hiện nay Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu gỗ đạt 1,5 tỷ USD, sản xuất đồ gỗ trong nước cũng nhiều lên. Do đó, mỗi năm nước ta nhập và thải ra môi trường gần hai nghìn tấn dung môi, gây ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, nguồn xăng thơm sử dụng để xử lý gỗ trước khi phun sơn bóng luôn có hạn, giá đắt, nên nếu dùng sơn lót chống cháy TLS để thay thế cho sơn nhập khẩu không những giảm được ô nhiễm môi trường mà còn giảm được chi phí đáng kể cho doanh nghiệp, chống được hỏa hoạn.

Phương pháp xử lý gỗ rừng trồng

Trong đơn gửi Cục Sở hữu trí tuệ đề nghị cấp bằng độc quyền sáng chế phương pháp xử lý gỗ rừng trồng cho Nguyễn Văn Thanh, Công ty sở hữu trí tuệ Gia Việt (đơn vị được ông Thanh ủy quyền) đã nêu bật tính vượt trội của phương pháp xử lý gỗ bằng hơi nước độc đáo.

Một phát minh tưởng như đơn giản nhưng hoàn toàn khoa học: đưa gỗ rừng sản xuất với đặc điểm mềm, nhanh mục, dễ thấm nước, cong vênh vào bình đựng nước, sau đó tăng nhiệt độ trong bình lên 160- 180 độ C, áp suất trong bình đạt khoảng 4-5 atmotphe.

Nhiệt độ cao sẽ hóa lỏng nhựa trong thân gỗ, làm co giãn sợi xenlulô. Sau đó xả hơi nước đột ngột và đưa dung dịch keo nhựa nhiệt rắn (epoxy phenolic, keo melamin đã ankyt hóa hoặc một số loại keo nhiệt rắn khác) vào bình. Nhựa nhiệt rắn ngấm dần vào sợi xenlulô, làm cứng gỗ rừng trồng như gỗ rừng tự nhiên, chống cháy.

Theo ông Thanh, các thí nghiệm này hoàn toàn có thể triển khai rộng rãi được. Do đó nếu đưa vào ứng dụng sớm sẽ là lối ra lý tưởng cho ngành trồng rừng hiện nay đang ứ đọng nguyên liệu rừng sản xuất, hoặc bán với giá vô cùng rẻ. Đây là một phương án góp phần xóa đói giảm nghèo, làm sạch môi trường.

Bạn đọc quan tâm có thể liên hệ với ông Nguyễn Văn Thanh theo số điện thoại 0913 661 202.

(Theo Tiền Phong)

 

Luyện thép từ nhựa thải

Lò luyện thép.

Các nhà khoa học Australia vừa phát triển một công nghệ làm thép "thân thiện môi trường", trong đó tận dụng nhựa phế thải. Quy trình này có thể được ứng dụng trong tái chế kim loại vụn chiếm khoảng 40% sản lượng thép hiện nay.

Trong quy trình luyện thép mới, nhựa thải sẽ được "nạp" vào các lò nung như một nguồn carbon thay thế và được đốt nóng tới nhiệt độ 1.600 độ C. Theo tác giả công trình, bà Veena Sahajwalla từ Đại học New South Wales, nhựa phế thải rất dễ kiếm, từ túi mua hàng cho tới can đựng nước tẩy rửa hay chai nước. Chúng chứa đủ lượng carbon để luyện thép.

Chỉ riêng ở Australia, mỗi năm có khoảng 1 triệu tấn nhựa được sử dụng thô và phần lớn cuối cùng trở thành phế thải đổ đầy mặt đất. Sahajwalla hy vọng công nghệ luyện thép mới sẽ biến một vấn đề môi trường "đau đầu" thành nguồn tài nguyên giá trị.

Trong quy trình luyện thép, carbon được dùng để gia tăng độ cứng. Hàm lượng carbon càng cao thì thép càng cứng nhưng khó uốn hơn. Sahajwalla cho biết có tới 30% lượng than đá trong các lò nung có thể được thay bằng nhựa phế thải. Chỉ có PVC là một trong số ít loại nhựa không thích hợp cho công nghệ này vì nó có khả năng giải phóng carcinogen khi bị cháy. Ngoài ra, công nghệ luyện thép mới không thay thế được tất cả than đá và than cốc, song có thể phối hợp nhựa và than.

Theo chuyên gia Clyde Henderson từ tờ Energy Economics của ngành than đá, thì một công nghệ tương tự tận dụng đầu mẩu nhựa tái chế đã được ứng dụng trong các nhà máy nhiệt điện ở Nhật Bản.

Mỹ Linh (theo ABC)

 

Tàu con thoi hạ cánh thành công

 

Discovery tiếp đất tại Căn cứ Edwards. Ảnh: AP

19h12 giờ Hà Nội, chuyến bay đầu tiên trở lại bầu trời của tàu con thoi Discovery đã kết thúc thành công trong sự hồi hộp nghẹt thở của các chuyên gia tại Cơ quan Vũ trụ Mỹ (NASA). Con tàu tiếp đất êm ái trong màn đêm tại Căn cứ không quân Edwards, không lâu trước lúc bình minh.

Mưa bão ở Mũi Canaveral, bang Florida đã buộc Cơ quan vũ trụ Mỹ phải đổi địa điểm hạ cánh cho tàu con thoi. Nơi tiếp đất dự kiến ban đầu là Trung tâm Vũ trụ Kennedy đã được chuyển thành Căn cứ không quân Edwards.

Màn hình theo dõi cho thấy mưa gần căn cứ Kennedy.

Chính vì việc chuyển đổi này mà về sau NASA sẽ phải tốn thêm ít nhất một tuần và khoảng một triệu đôla để chất nó lên một chiếc Boeing 747 để đưa từ California trở lại Florida - nơi đặt bệ phóng.

Discovery theo kế hoạch đã hạ cánh hôm qua, song thời tiết xấu đã buộc con tàu phải bay quay trái đất thêm 24 giờ nữa. NASA đã cực kỳ cẩn trọng cho sự trở về này, vì đây là chuyến bay đầu tiên của loạt tàu con thoi sau tai nạn thảm khốc của tàu Columbia năm 2003. Sự hồi hộp và lo lắng còn tăng thêm do sự cố bung mảnh xốp cách nhiệt trên bồn nhiên liệu ngoài - tình huống tương tự như kịch bản đã xảy ra với Columbia.

T. An

Lộ diện nhà thờ cổ đại ở Ai Cập

Một góc tu viện St. Anthony.

Dấu tích một nhà thờ cổ và nơi ẩn dật của các thày tu có từ những năm đầu của hoạt động tu hành mới được phát hiện tại một tu viện Cơ đốc thuộc vùng Biển Đỏ.

Các công nhân đã phát hiện ra khu đổ nát khi đang phục chế nền móng của nhà thờ Apostles thuộc tu viện St. Anthony. Di tích nằm sâu dưới mặt đất khoảng 2 m.

Tu viện nằm trên vùng hoang mạc phía tây của Biển Đỏ do những môn đồ của thánh Anthony thành lập. Thánh Anthony là một ẩn sĩ qua đời vào năm 356 sau Công nguyên và được coi là cha đẻ của đạo Cơ đốc.

Dấu vết còn lại bao gồm những cột trụ của nhà thờ làm bằng gạch bùn và các khu ở 2 phòng. Trong một căn phòng người ta tìm thấy một cái bếp lò và lò nướng. Căn phòng khác có chữ viết Coptic trên tường.

"Những căn phòng này cổ nhất ở Ai Cập và nó hé mở ánh sáng về chế độ tu đầu tiên ở Ai Cập", nhà khảo cổ Abdullah Kamel nhận định.

M.T. (theo AP)

 

Sai lầm của một số vĩ nhân

Sự thay đổi nhanh chóng trong cuộc sống và sự nghiệp của Newton đương nhiên trở thành chủ đề đàm tiếu của người đương thời. Nhân vật anh hề trong một vở kịch đương thời đã nói: Ai chẳng biết đại danh của ngài Isaac! Thợ đúc tiền! Vĩ đại thật!...

Newton ngừng nghiên cứu khoa học

Mặc dù Newton có thành tựu lớn lao trong nghiên cứu khoa học nhưng ông luôn gặp khó khăn về kinh tế. Năm 1692, bị cuộc sống vật chất giàu có hấp dẫn, Newton quyết định từ bỏ con đường nghiên cứu khoa học gian khổ để tìm kiếm công việc có thể cho thu nhập cao. Tin truyền đi, rất nhiều người giới thiệu việc làm cho ông. Đầu tiên là chức hiệu trưởng một trường công lập ở London, nhưng ông từ chối vì đồng lương chưa thoả đáng. Tiếp đó là chức giám đốc nhà máy đúc tiền hoàng gia nước Anh với đãi ngộ rất khả quan. Newton đồng ý và chuyển đến sống ở London. Từ đó ông say sưa dùng bộ óc vĩ đại của mình vào công việc đúc tiền. Nỗ lực của ông được hoàng gia đánh giá cao, còn bổ nhiệm ông làm Cục trưởng Cục đúc tiền. Cương vị này đem lại cho Newton mức thu nhập hằng năm lên tới 2.000 bảng Anh, rất cao lúc bấy giờ. Nói như vậy bởi hồi đó kinh phí xây dựng Đài thiên văn London chỉ hết 500 bảng. Công việc mới khiến ông luôn bận rộn. Kết quả là ông không có thời gian tiếp tục nghiên cứu giảng dạy ở Đại học Cambridge. Đến năm 1701, ông đành từ bỏ chức giáo sư đại học. Sự kiện này gây ra những thay đổi to lớn trong nửa sau cuộc đời ông: Từ nghèo túng trở nên giàu có, từ một học giả sống yên tĩnh trong trường đại học trở thành nhân vật tương đối có ảnh hưởng trong chốn quan trường London, có quan hệ ngày càng thân thiết với Hoàng gia.

Sự thay đổi nhanh chóng trong cuộc sống và sự nghiệp của Newton đương nhiên trở thành chủ đề đàm tiếu của người đương thời. Nhân vật anh hề trong một vở kịch đương thời đã nói: Ai chẳng biết đại danh của ngài Isaac! Thợ đúc tiền! Vĩ đại thật!

Sự phủ định của Einstein

Trong nhiều thành tựu khoa học lớn của Einstein, quan trọng nhất là thuyết tương đối và phát triển thuyết lượng tử do Max Planck nêu ra. Tuy nhiên, điều khiến người đời đáng tiếc nhất là mặc dù trong buổi đầu của ngành lượng tử học, Einstein là nhà khoa học lớn đầu tiên đứng ra ủng hộ và phát triển, nhưng về sau ông đã thay đổi thái độ đối với lượng tử học. Kết quả là trong khi rất nhiều nhà khoa học dưới sự hướng dẫn của ông đã đi sâu nghiên cứu lĩnh vực này và thu được hàng loạt thành tựu mới, thì Einstein, trái lại, từ năm 1925 bắt đầu đi ngược con đường của mình, trở thành người phản đối ngoan cố lượng tử lực học.

Năm 1927, nhà vật lý học người Đức Werner Heisenberg trên cơ sở thành tựu của nhiều nhà khoa học trong lĩnh vực lượng tử học đã tìm ra "Nguyên lý bất định", phản ánh sự thực về tính hai mặt của hạt sóng lượng tử. Nguyên lý này cho thấy: đối với hạt vi mô, muốn xác định đúng vị trí thì không thể xác định đúng vận tốc của nó. Ngược lại, muốn xác định đúng vận tốc của nó thì không thể xác định đúng vị trí. Đây là căn cứ lý luận quan trọng để người sau nhận thức hạt vi mô. Nhưng Einstein đã phủ định nguyên lý này, nói lượng tử học không có căn cứ lý luận, chỉ là giả thuyết ngẫu nhiên không hoàn chỉnh. Ông không chỉ phê phán lý luận lượng tử mà thực tế còn ngừng nghiên cứu lĩnh vực này, tập trung hoàn toàn vào thuyết tương đối. Về sau, Einstein không hề có thành quả nghiên cứu lượng tử lực học. Sai lầm dẫn tới sự thụt lùi đáng tiếc. Nhiều người lúc đó cho rằng đây là bi kịch, vì từ đó Einstein mày mò tiến lên trong cô đơn, còn loài người mất đi một ngọn cờ, một vị thủ lĩnh của khoa học.

Sự bảo thủ của Mendeleev.

Định luật tuần hoàn các nguyên tố hoá học của Mendeleev là phát hiện có tính cách mạng trong lĩnh vực hoá học. Sau đó, Mendeleev cũng từng dự định tiếp tục nghiên cứu làm rõ nguyên nhân sự biến hoá có tính tuần hoàn về tính chất của các nguyên tố theo nguyên tử lượng. Nhưng ông không thoát khỏi ảnh hưởng của những quan niệm truyền thống - nguyên tố không thể chuyển hoá, không thể phân chia. Vì thế đến cuối thế kỷ 19, khi người ta phát hiện sự tồn tại của nguyên tố phóng xạ và điện tử, đưa ra những chứng cứ thực nghiệm mới, chỉ ra sự biến đổi từ lượng sang chất của nguyên tử thì Mendeleev không lợi dụng thành quả mới này tiếp tục phát triển định luật tuần hoàn của mình, ngược lại ra sức phủ định tính phức tạp của nguyên tử và sự tồn tại khách quan của điện tử. Việc phát hiện ra nguyên tố phóng xạ rõ ràng chứng tỏ nguyên tố có thể chuyển hoá, nhưng ông lại nói: "Chúng ta không nên tin tính chất phức tạp của đơn chất mà chúng ta đã biết".

Ông còn tuyên bố: "Khái niệm nguyên tố không thể chuyển hoá là hết sức quan trọng, là cơ sở của cả thế giới quan". Tuy vậy, trên cơ sở những phát hiện vĩ đại về nguyên tố phóng xạ và điện tử, các nhà khoa học đã từng bước vạch ra bản chất của định luật tuần hoàn các nguyên tố hoá học. Họ dựa vào những nội dung hợp lý trong định luật tuần hoàn Mendeleev để đưa ra định luật tuần hoàn mới, khoa học hơn so với lý luận của ông. Định luật này chỉ ra các nguyên tố trong bảng tuần hoàn được sắp xếp theo hoá trị của nguyên tử, nguyên tử số tăng thì hoá trị của nguyên tử cũng tăng, số lượng neutron cũng sẽ tăng. Số hoá trị và số neutron kết hợp lại thể hiện gia tăng của nguyên tử lượng. Nhưng thực tiễn chứng minh không phải có bao nhiêu nguyên tố là có bấy nhiêu loại nguyên tử. Trong một loại nguyên tố có đồng vị tố chứa nhiều neutron, cũng có đồng vị tố chứa ít neutron. Nguyên tử lượng của nguyên tố là số bình quân của đồng vị tố. Hoá trị đây chính là số lượng điện tử bên ngoài nhân nguyên tử, cũng chính là điện tích của nhân nguyên tử, tức nguyên tử số. Từ đó giải quyết được vấn đề mà Mendeleev còn bỏ ngỏ. Tính bảo thủ đã khiến một nhà khoa học lớn như Mendeleev thụt lùi trên con đường nghiên cứu bí ẩn của định luật tuần hoàn, mất đi cơ hội phát triển định luật này.

Thế Giới Mới (theo Độc giả tinh hoa)

 

Hệ thống quan sát hồng ngoại cho xe hơi

Lái xe trong đêm tối là một trong những tình huống căng thẳng và dễ gây tai nạn nhất. Từ tháng 10 tới, hãng BMW danh tiếng của Đức sẽ đưa vào sử dụng hệ thống quan sát ban đêm bằng hồng ngoại có tên BMW Night Vision.

Hệ thống camera hồng ngoại giúp quan sát chướng ngại vật từ cách xa 300 mét.

Hệ thống này gồm một camera hồng ngoại nhiệt gắn chìm phía trước mũi xe và một màn hình nhỏ hiển thị ảnh thu được phía trước mặt người lái. Trên màn ảnh, các vật cản trên đường sẽ biểu hiện thành những vùng sáng, vật thể càng ấm càng sáng hơn. Người (đi bộ bên lề đường) và động vật (băng ngang đường) sẽ là những điểm sáng nhất trên ảnh.

Hệ thống sẽ giúp cho người lái dự kiến được những tình huống nguy hiểm sớm hơn và có thể chuẩn bị tinh thần đề phòng tốt hơn. Từ trước đến nay, công nghệ hỗ trợ quan sát ban đêm bằng hồng ngoại thường chỉ được áp dụng trong lĩnh vực quân sự.

(Theo KHĐS, ADIT, TheAutochannel)

 

Phát hiện cung điện của vua David

Eliat Mazur đứng trên khu cung điện đổ nát của vua David.

Các nhà khảo cổ Israel tuyên bố vừa phát hiện ra dấu tích của một công trình được cho là cung điện huyền thoại của vua David trong kinh thánh, trong một cuộc khảo sát bí mật ở miền Đông Jerusalem.

Khu cung điện đổ nát trải dài trên 30 m ở Silwan, khu vực cổ nhất của Jerusalem, giáo sư khảo cổ Gabriel Barkai cho biết. Cung điện có tuổi đời hơn 30 thế kỷ.

Nhà khảo cổ đứng đầu Eliat Mazar tin rằng đó chính là cung điện truyền thuyết mà vua Tyre đã tặng cho vua David để cám ơn ông về cuộc chiến chống lại người Philistine, theo kể lại trong kinh thánh. Tuy nhiên các nhà khảo cổ Israel đã phản đối tuyên bố này.

M.T. (theo AFP)

 

Tìm hiểu chế độ ăn của người tiền sử

Hộp sọ của người

Hộp sọ của người A. africanus.

Bằng cách phân tích những dấu vết còn sót lại trên bộ răng hoá thạch, các nhà khoa học đã tìm ra thực đơn của 2 loại người tiền sử.

Những người Australopithecus africanus nhỏ nhắn, mảnh khảnh, sống khoảng 2-3 triệu năm trước, thường ăn chủ yếu những thức ăn mềm như quả tươi, lá non và một chút thịt.

Trong khi đó người Paranthropus robustus có kích cỡ tương tự người A. africanus, nhưng sống khoảng 2 triệu năm trước, có răng phẳng và to hơn, hàm dày và rộng hơn, cơ nhai nặng hơn. Răng của họ chứng tỏ họ đã ăn những đồ thô cứng như hạt giống, hột quả, rễ cây và thân củ - loại thức ăn mọc ở hoang mạc. Nhưng người P. robustus cũng có dấu hiệu đã ăn những đồ ăn mềm giống người A. africanus, chứng tỏ họ đã tìm cách sống sót tốt hơn trên hoang mạc.

"Cũng giống như giữa tinh tinh và khỉ đột - cơ thể của chúng khác nhau, nhưng hầu như chúng ăn cùng loại thức ăn khi sống cùng nhau", tác giả nghiên cứu Peter Ungar tại Đại học Arkansas, Mỹ, cho biết. "Những thời điểm chúng khác biệt nhau là khi thức ăn bị khan hiếm. Khi những món ăn mềm và ngọt không còn, khỉ đột chuyển sang ăn lá cây cứng và cành cây, bởi cơ thể chúng cho phép tiếp nhận những thứ đó".

Từ lâu, các nhà nghiên cứu vẫn tin rằng người P. robustus chuyên ăn đồ cứng, dựa trên giải phẫu khuôn mặt. Nay nghiên cứu của Ungar đã chứng tỏ người P. robustus có chế độ ăn đa dạng, và sự khác biệt này được tạo ra bởi những khoảng thời gian ngắn nhưng vô cùng thiết yếu.

"Những người tiền sử này đều thích ăn quả hơn - bởi nó ngon và nhiều năng lượng", Ungar nói. "Tôi cho rằng cả hai nhóm người sẽ ăn thịt ngay khi có thể, cũng tương tự như tinh tinh ngày nay". 

M.T. (theo Livescience)

 

 

Xốp cách nhiệt 'có thể đã va vào tàu con thoi'

Vị trí mảnh xốp bong ra trên bồn nhiên liệu ngoài (bị thả rơi trong quá trình Discovery bay lên).

Các quan chức NASA cho hay ít nhất một mảnh vỡ của tấm xốp bảo vệ đã văng vào cánh tàu con thoi Discovery khi nó cất cánh. Tuy nhiên, họ cũng tin rằng con tàu sẽ trở về trái đất an toàn.

Phó giám đốc chương trình tàu con thoi của NASA, Wayne Hale, cho biết bằng chứng mới qua ảnh dường như cho thấy có va chạm trên một trong hai cánh tàu. Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh rằng có sự phân chia ý kiến trong NASA về việc mảnh xốp đó có thực sự tiếp xúc hay không. Bản thân Hale không tin rằng vụ va chạm này có thể gây bất cứ hư hại nào tới tàu con thoi.

Song tháng 1/2003, trong một sự cố tương tự (một mảnh xốp cách nhiệt va vào cánh), tàu con thoi Columbia đã nổ tung khi quay trở lại bầu khí quyển trái đất.

Sau sự cố với Discovery, Cơ quan vũ trụ Mỹ đã hoãn tất cả các chuyến bay trong tương lai của tàu con thoi, cho đến khi họ tìm ra một giải pháp hiệu quả để ngăn chặn hiện tượng xốp cách nhiệt rơi ra khỏi bồn nhiên liệu ngoài trong lúc cất cánh.

T. An (theo BBC)

 

Sẽ sửa chữa tàu con thoi ngay trong vũ trụ

Một nhà du hành sẽ thực hiện việc sửa chữa chưa từng có tiền lệ với tàu con thoi, Cơ quan Vũ trụ Mỹ thông báo. Người này sẽ tháo bỏ các mảnh nằm kẹp giữa những tấm sứ cách nhiệt dưới bụng tàu Discovery.

NASA đang lo ngại về thứ mảnh vỡ lủng lẳng này - được gọi là các filler - có thể góp phần làm con tàu nóng lên quá mức trong quá trình thâm nhập trở lại bầu khí quyển. Công việc sửa chữa như vậy chưa từng được thực hiện trong những chuyến đi bộ ngoài không gian trước đây.  

Cánh tay máy của Trạm vũ trụ sẽ đưa một nhà du hành tới vị trí mà anh ta có thể khắc phục sự cố. Nhiệm vụ này được thực hiện trong chuyến đi bộ thứ 3 ra ngoài khoảng không của phi hành đoàn.

Chuck Campbell, thuộc nhóm khí động học của tàu con thoi cho biết các filler có thể làm tăng nhiệt độ của lớp sứ cách nhiệt lên 10-30%. Những mảnh sứ bị vỡ đặc biệt nhạy cảm với sự gia nhiệt này. Hai mảnh filler như vậy đang gắn lơ lửng giữa các miếng sứ cách nhiệt gần mũi tàu Discovery, một có đường kính khoảng 2,8 cm và mảnh kia khoảng 2,2 cm. Các quan chức NASA cho biết, điều này không liên quan tới những hư hại từ mảnh xốp cách nhiệt. Có lẽ chúng lỏng lẻo do những rung lắc trong quá trình phóng lên.

T. An (theo BBC)