Ông sinh
năm 1948 tại Hà Nội,
năm 1954 cùng gia đình vô Nam, đầu tiên
ở Ðà Lạt và học tại Lycée Yersin. Lên Trung học,
ông xuống Sài Gòn và học tại Lycée Jean
Jacques Rousseau, (tên cũ là Chasseloup Laubat).
Ông giỏi Khoa học lẫn Văn chương, thấm nhuân văn hóa và
yêu văn chương Pháp. Năm 1966 đậu Tú tài Toán ưu hạng, du học sang
Pháp định học lớp dự bị tại trường Louis Legrand để vào những
trường lớn như Polytechnique Paris. Nhưng lúc đó tổng
thống Pháp De Gaulle tuyên bố để vùng Ðông Nam Á được trung
lập và Mỹ phải rút quân ra khỏi Việt Nam.
Ðiều này đã đưa đẩy ông sang Thụy Sĩ và học ở
Lausane một năm. Nhưng ông không thích lối học
của ngành kỹ sư, mà chỉ muốn nghiên cứu. Nghe bên Mỹ
có ba trường lớn nổi tiếng là MIT ở
Boston, Caltech ở Pasadena California và Princeton, ông viết
thư xin học bỗng ở các trường này và xin lên hẳn
năm thứ hai trong lúc ông không thạo
tiếng Mỹ và được cả ba trường nhận.
Nhưng Caltech (California Institute of
Technology)khí hậu ấm áp đã giữ chân ông. Tại đây
năm 1970 ông đậu Cử nhân Vật lý và năm 1974 đậu Ph. D. về
Astrophysic rồi về nước thăm gia đình. Sau khi xong Post Doc
tại Princeton University, năm 1976 ông giữ chức giáo sư
tại University of Virginia . Nhiều học trò của ông đã
trở thành những nhà khoa học nổi tiếng tại Hoa Kỳ và thế giới hiện
nay như tiến sĩ Michael Fanelli (Ph.D., 1991), Ricky Patterson
(Ph.D., 1995).
Với thầy Richard Feynman, ông nhận xét: "Feynman
là một Nobel, là một thiên tài, ông nhìn cái
gì cũng đặc biệt của riêng ông, ông không dạy từ
trong sách mà tự nghĩ ra cách của ông nên rất hay. Ông
thích người trẻ, tôi rất phục ông và cách dạy của ông
ảnh hưởng nhiều trong cách thức dạy học của tôi . Lúc
tôi dạy khoa học tôi cũng muốn cho học trò mình cái nhìn
tổng quát. Tôi hay nói những triết lỳ trong
khoa học của tôi. Trái đất mình đang bị
những đe dọa trầm trọng, tôi chuyển nhiệm vụ bảo vệ trái đất
cho các học trò của tôi vì họ là những
người sẽ ra nắm giữ những chức vụ quan trọng sau này"
Hiện tại ông đang khảo cứu
cách các thiên hà đang thành hình.
Ông nói: "Mấy tuần trước tôi có viết bài
tiểu luận về chuyện này. Phần đông mấy thiên hà
hình thành 1 tỉ năm sau Big bang,
tức là cách ta 13 tỉ
năm ánh sáng nên rất xa, ánh sáng rất yếu, nên khó
khảo cứu.
Còn những thiên hà
trẻ thì rất hiếm. Bởi vậy một trong những công việc
khảo cứu của tôi là kiếm ra các thiên hà trẻ và nhỏ
(blue compact dwarf galaxy). Tôi đang khảo cứu thiên
hà T Zwicky 18 chỉ cách trái đất 50 triệu năm ánh
sáng. Ðối với vũ trụ với bán kính là 14 tỷ năm
ánh sáng, thì khoảng cách đó rất là
nhỏ.
Thiên hà này đã được
Fritz Zwicky (1898-1974) khám phá vào năm 1966. Ðây là
một thiên hà bất bình thường không có dạng
đĩa phẳng như thiên hà spirales hay có
halospheroidal (quầng cầu) như thiên hà elliptique. Ngược lại nó rất giàu
khí hydrogen và lại rất ít các nguyên tố nặng (heavy
elements). Vì các chất nặng do các vì sao tỏa ra, ít
chất nặng và giàu hydrogen có nghĩa là
không có nhiều ngôi sao sinh ra ở trong quá khứ
của I Zwicky 18.
Tôi đã dùng kính thiên
văn Hubble của NASA để chụp hình I Zwicky 18 trong 24
quỹ đạo (orbites) (Hubble đi vòng quanh quả
đất mất 90 phút) và đã khám phá là tuổi các ngôi sao già
nhất ở trong I Zwicky 18 không quá 500 triệu năm. Ðối với tuổi
của vũ trụ là 14 tỷ năm, 500 triệu năm là
một chớp nhoáng. Vậy I Zwicky 18 là một thiên hà trẻ con
đang thành hình"
Việt Nam chưa có môn học Thiên
văn: "Có
thể ở VN cũng
nên bắt đầu nghĩ đến ngành
thiên văn.
Hè năm 2000 khi tôi về
Việt Nam để giảng dạy Thiên văn trong
2 tuấn cho những sinh viên
ưu tú ở Ðại học Hà Nội, tôi cũng
dùng tiếng Mỹ. Những
sinh viên của
tôi đều rất ham mê. Nhưng tôi
chỉ dạy lý thuyết thôi vì
không có telescope để
nhìn trời. Hơn nữa, nhiều
sinh viên có nói cho tôi là rất
tiếc không có ai dạy Vật
lý Thiên văn ở Hà Nội
nên khi tôi
đi thì coi như là hết!.
Theo tôi nghĩ, mới đầu
chỉ cần mua
một téléscope nhỏ
cho mấy người trẻ nhìn.
Bắt đầu cho họ xem những hành
tinh xa hơn trái đất như
Jupiter, Saturne, sau đó
nhìn ngôi sao. Có
một người email hỏi những sách
nào nên tham khảo để dịch
ra tiếng Việt cho cho sinh viên
VN. Sách vở bên Mỹ
Pháp rất nhiều nhưng bên
Việt Nam chưa có. Hè này
tôi sẽ về một tháng
để gặp
các trường
đại học ở Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi sẽ nói về
việc trao đổi giữa các đại
học Việt Nam và Mỹ.
Cho những sinh viên qua
Ðại học Mỹ học rồi về nước
phát triển ngành
Thiên văn. Mấy
chuyện đó tuy lâu dài nhưng
cũng
phải bắt đầu gieo mầm để một
ngày kia sẽ thành cây. Ðây là
khoa học thuần túy không
có áp dụng thực tế. Dù
nước mình nghèo nhưng
cũng phải nghĩ đến kiến
thức, phải có căn bản hiểu
biết thì mới trao
đổi bàn chuyện với các
nước khác. Tôi nghĩ
mình cũng cần giàu
có kiến thức chứ
không nên chỉ nghĩ
đến cái giàu vật chất."
Ông rất tin ở Karma, là
một phật tử, tính tình ông nhân
hậu: "Khi
gặp những người nào không
tốt đến với mình, mình ráng
làm sao để không
giận, Phật
giáo tạo cho mình lòng
thương, cho mình sức để
tranh đấu và cho mình niềm tự
tin để cố
gắng làm việc tốt. Tôi
làm việc vì đam mê cũng như tôi
viết sách là muốn chia sẻ sự
hiểu biết của tôi với
grand public chứ không
phải để đuợc nổi tiếng. Tôi được
may mắn người ta đọc đến.
Bởi vì nếu mình làm việc với mục
đích được giải thì khi không
được, mình sẽ khổ"
Trong năm học, ông vừa dạy
vừa nghiên cứu. Mùa hè, ông
chú tâm viết sách và
được các nước nói tiếng
Pháp như Île de Maurice,
Belgique, Québec, Pháp...
mời đến nói chuyện. với công
chúng và sinh viên
học sinh. Sách của ông
được viết bằng tiếng Pháp
nên ông được độc giả
Pháp biết trước tiên và yêu chuộng. Năm 1993, tổng
thống Mitterand, một người
yêu văn chương ông, đã mời
ông cùng những nghệ sĩ, ký giả
nổi tiếng của Pháp cùng với các
nhân vật trong chính quyền qua
thăm Việt Nam. Ông nói: "Tôi
học tiếng Pháp từ
nhỏ, chịu ảnh hưởng
văn chương Pháp nên
thích viết tiếng
Pháp
vì có nhiều
nuance, expression hơn. Tôi đọc
Pascal, Victor Hugo, Guy de
Maupassant, Hector Malo... , nếu
như mình quen với văn chương
Shakespeare thì mình sẽ
viết tiếng Mỹ hay
hơn... Tôi dạy học và viết
những bài tiểu luận về
Thiên văn bằng tiếng Mỹ
cho các đồng nghiệp.
Còn viết văn cho mọi người đọc
thì tôi thích viết tiếng
Pháp hơn. Ðể có
nhiều độc giả, thì tôi cho
dịch ra tiếng
Mỹ. Tôi thích víết cái style
(loại văn) văn chương cho mọi
người đọc. Viết sách khoa
học một cách văn chương thì
độc giả dễ hiểu và
thich thú
hơn. Còn với những
người chuyên về thiên văn
thì họ đã thích môn
này rồi, không cần
phải diễn dịch một cách văn
chương."
Sách ông viết là những cuốn
sách bán chạy nhất, bởi tư tưởng
của ông mới lạ.
Khảo cứu về giải Ngân Hà,
ông đã viết
khoảng 200
bài tiểu luận về sự hình
thành các yếu tố trong
Big Bang và Thiên hà cùng
với sự tiến triển
của chúng và đã
viết 7 quyển sách bằng tiếng
Pháp. Sách ông được dịch ra 15
thứ tiếng, trong đó có ba quyển
được dịch sang tiếng Việt là
"Nói Chuyện Với Trịnh Xuân
Thuận" , "Giai
Ðiệu
Bí Ẩn và Con Người Ðã Tạo Ra Vũ
Trụ" (nxb KHKT)
và"Hỗn
độn và hài hòa"
(nxb Khoa học và Kỹ thuật)..,
Origines
, Les voies de la lumière
(2/2007),
Dictionnaire amoureux du ciel et
des étoiles '27/08/2009)
Theo ông, thế giới vi mô sinh
ra thế giới vĩ mô. Lượng
tử sinh ra Tương đối tổng quát.
Ông kết hợp khoa học và
Phật giáo, Lượng tử với Tương
đối. Ông cho rằng
ta sinh ra từ những
hạt bụi của các vì sao.
Trên tư tưởng đó, vũ trụ đã sinh
ra ta, và ta
là con cháu của vũ trụ. Con
người là cái gì đẹp nhất mà chỉ
trái đất mới sản sinh ra được.
Chỉ có loài người với mới có tư
tưởng để thưởng thức được cái
đẹp tuyệt vời của vũ trụ.
The Big Bang and after: does the Universe have a meaning?
Chaos and Harmony: the making of Reality
Science and Buddhism: a meeting of the minds
Areas of Specialization
Cosmology
Astronomy and Astrophysics
Science and Buddhism
Education & Awards
1970 - B.S., California Institute of Technology
1974 - Ph.D. in Astrophysics, Princeton University
Publications
Professor Thuan has authored nearly 200 articles and written
several books.
Memberships and Professional
Responsibilities
Professor of Astronomy, University of Virginia
Member, American Astronomical Society
Member, International Astronomical Union
Vice President, Advisory Board for Universite
Interdisciplinaire de Paris
Member, UNESCO Council on the Future
Board of Advisors, John Templeton Foundation
Member, Page-Barbour Richards Lectures Committee, University
of Virginia
Member, Promotions and Tenure Committee, University of
Virginia