Napoléon
Bonaparte (1769-1821)
làm thay đổi Lịch Sử của nước Pháp và của Thế
Giới.
Đối với các binh lính mà ông chỉ huy ngoài mặt
trận, Napoléon được gọi bằng một tên thân mến là
“Viên Hạ Sĩ nhỏ bé” (the Little Corporal).
Napoléon là một vị tướng chỉ cao 1 thước 57 (5
ft 2 in.), chiều cao trung bình của một người
dân Pháp vào thời đại đó, ông thấp hơn các tướng
lãnh dưới quyền và các chính khách đương thời
của châu Âu, nhưng Napoléon là một con người đầy
nghị lực và rất tham vọng: ông là một nhà cai
trị xuất chúng, đã đồng thời kiểm soát hệ thống
chính trị, chính sách đối ngoại, các công việc
đối nội, ngành báo chí của toàn thể nước Pháp
Napoléon đã nghĩ ra rất nhiều cải
cách hữu ích kể cả việc thiết lập nên một chính
quyền trung ương vững mạnh, hữu hiệu, đã duyệt xét
lại và tổ chức lại hệ thống luật pháp của nước Pháp
thành bộ luật hữu lý. Nhiều công trình cải tiến hành
chính của Napoléon vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay
trong các cơ chế chính quyền của nước Pháp và tại
các quốc gia theo ảnh hưởng và văn minh Pháp.
Napoléon đã tự phong làm Hoàng Đế của nước Pháp và
đã tạo ra một đế quốc trải rộng khắp miền tây và
miền trung của châu Âu. Hoàng Đế Napoléon đã là chủ
nhân của toàn thể châu Âu trong 16 năm: ông đã khéo
léo sử dụng các người dưới quyền có khả năng và đã
tưởng thưởng họ bằng các huy chương, cấp bậc, tài
sản và các danh hiệu quý tộc. Napoléon đã trực tiếp
điều khiển các trận chiến vĩ đại và rất phức tạp,
điều này chứng tỏ ông là một thiên tài quân sự, có
lẽ vĩ đại bậc nhất trong Lịch Sử của Nhân Loại.
1- Thuở thiếu thời của
Napoléon Bonaparte.
Napoléon sinh ngày 15-8-1769 tại Ajaccio, trên hòn
đảo Corsica không bao lâu sau khi hòn đảo này được
chính quyền Genoa bán cho nước Pháp. Napoléon là
người con thứ tư trong gia đình 8 người con và là
con trai thứ hai của ông Carlo Buonaparte và bà
Letizia Ramolino. Ông Carlo là một luật sư, có dòng
dõi quý tộc của xứ Tuscan và dòng họ này đã di cư và
sống trên đảo Corsica vào thế kỷ 16. Ông Carlo đã
cưới bà Letizia, một thiếu nữ 14 tuổi trẻ đẹp và là
người có ý chí mạnh. Họ đã phải nuôi dưỡng 8 người
con trong một hoàn cảnh eo hẹp về tài chính. Khi
người Pháp chiếm đóng đảo Corsica thì một số người
dân địa phương đã nổi lên chống lại chính quyền
Pháp, thủ lãnh là ông Paoquale Paoli. Ông Carlo
Buonaparte đã tham gia vào đảng phái của ông Paoli
nhưng khi ông thủ lãnh này bỏ trốn, ông Carlo đã hợp
tác với người Pháp. Nhờ sự bảo trợ của vị thống đốc
đảo Corsica, ông Carlo được bổ nhiệm năm 1771 làm
phụ thẩm (assessor) của khu vực tư pháp Ajaccio. Năm
1778, ông Carlo đã xin được phép cho 2 con trai lớn
là Joseph và Napoléon theo học trường trung học
d'Autun (College d'Autun).
Với nguồn gốc đảo Corsica và tên theo tiếng Ý là
Napoleone Buonaparte, Napoléon là một đứa trẻ ngoại
quốc có tình tình địa phương, rất ghét người Pháp là
lớp người bị dân chúng coi là kẻ áp chế. Khi lên 9
tuổi, Napoléon được cha gửi theo học trường quân sự
tại Brienne-le-Chateau, một tỉnh nhỏ gần Troyes.
Napoléon là một thiếu niên nhạy cảm, cô đơn, thường
bị các bạn cùng lớp bắt nạt. Sự tàn nhẫn của các bạn
học đã khiến cho Napoléon thu mình vào các mơ mộng
về vinh quanh cá nhân và chiến thắng quân sự.
Napoléon là một học sinh trung bình về phần lớn các
môn học nhưng lại xuất sắc về Toán Học. Năm 1784,
Napoléon được chọn lựa vào Học Viện Quân Sự Paris,
theo binh chủng Pháo Binh. Trong thời gian Napoléon
theo học tại thành phố Paris thì người cha qua đời
vì bị ung thư bao tử vào tháng 2 năm 1785, để lại
một gia đình sống trong hoàn cảnh eo hẹp. Tháng 9
năm đó, Napoléon tốt nghiệp Học Viện Quân Sự với cấp
bậc Thiếu Úy, xếp hạng 42 trong số 58 tân sĩ quan.
Sau đó, Napoléon phục vụ tại Trung Đoàn Pháo Binh Le
Fère, trú đóng tại Valence. Đây là trường huấn luyện
các sĩ quan Pháo Binh trẻ. Napoléon tiếp tục học hỏi
bằng cách tìm đọc rất nhiều sách vở về chiến thuật
và chiến lược, đọc các tác phẩm của Voltaire và
Rousseau, và cũng đã tập viết văn, đúc kết lại thành
“Các bức thư về Đảo Corsica” (Lettres sur la Corse)
trong đó mô tả các cảm tình của mình đối với nơi
sinh trưởng. Tháng 9-1786, Napoléon trở lại đảo
Corsica và đã không tham gian vào Trung Đoàn Pháo
Binh cho tới tháng 6-1788. Vào giai đoạn này, toàn
thể nước Pháp đang sôi động vì các biến cố chính trị
và cuộc Cách Mạng Pháp sắp sửa bùng nổ. Napoléon tin
tưởng rằng chắc chắn sẽ có cuộc thay đổi chính trị
tại nước Pháp.
2- Thời kỳ Cách Mạng Pháp.
Vào năm 1789, các nhà cách mạng Pháp đã hội họp tại
Paris để thành lập nên Quốc Hội và chế độ quân chủ
lập hiến, họ đã cho phép ông Pasquale Paoli trở về
đảo Corsica và vào tháng 9 năm đó, Napoléon cũng
quay về nghỉ tại đảo này. Tại quê hương, Napoléon
muốn tham gia vào phong trào của ông Paoli nhưng vị
lãnh tụ của phong trào chính trị địa phương này đã
không tin tưởng chàng thanh niên Napoléon vì người
cha, ông Carlo, đã không trung thành với lý tưởng
tranh đấu cho địa phương. Do bị gạt ra khỏi nhóm đấu
tranh và bị thất vọng, Napoléon trở lại nước Pháp và
vào tháng 4-1791, được bổ nhiệm làm Trung Úy tại
Trung Đoàn Pháo Binh thứ 4, đóng tại Valence. Chính
tại nơi này, Napoléon đã tham gia vào Câu Lạc Bộ
Jacobin, một hội chính trị cấp tiến, lúc đầu chủ
trương một nước cộng hòa dân chủ. Napoléon đã trở
nên chủ tịch của câu lạc bộ và trong các lần phát
biểu, thường công kích các nhà quý tộc, các giám mục
và các thầy tu.
Tháng 9 năm 1791, Napoléon xin nghỉ phép và trở về
sống tại đảo Corsica trong 3 tháng, và trong thời
gian này, ông đã phục vụ trong quân đội địa phương
của đảo (the Corsican National Guard). Sự tham gia
vào câu lạc bộ Jacobin và khuynh hướng chính trị cấp
tiến của Napoléon đã gây nên sự bất hòa giữa
Napoléon và ông Paoli, một người bảo hoàng. Sau khi
cuộc Cách Mạng Pháp xẩy ra và Vua Louis 16 bị hành
quyết vào tháng 1-1793, thì ông Paoli với chủ trương
tách đảo Corsica ra khỏi nước Pháp, đã tuyên bố
Napoléon là kẻ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Các
người trong gia đình Buonaparte đành phải rời khỏi
hòn đảo, chạy qua đất Pháp. Napoléon trở về phục vụ
trong Quân Đội Pháp và đóng tại thành phố Paris.
Dưới chế độ quân chủ Bourbon, Napoléon có rất ít hy
vọng được thăng cấp nhưng khi cuộc Cách Mạng Pháp
lên cao độ vào ngày 10-8-1792 với chế độ quân chủ đã
bị lật đổ và một nước Cộng Hòa được thành lập, thì
đây là cơ hội rất tốt, có tính quyết định đối với
cuộc đời của Napoléon và đã mở ra để Napoléon tiến
lên đài vinh quang. Vào thời gian này, phần lớn các
sĩ quan cao cấp của quân đội Pháp vẫn còn trung
thành với nhà Vua nhưng Napoléon lại xét đoán thời
cuộc theo một đường hướng khác. Nước Cộng Hòa Pháp
hiện đang phải đối đầu với cuộc nội chiến và các
cuộc chiến tranh với các nước lân bang. Nền Cộng Hòa
đang rất cần các sĩ quan có khả năng và trung thành
với chế độ mới.
Năm 1792, Napoléon mang cấp bậc Đại
úy rồi phục vụ tại Nice vào tháng 6-1793. Vào
thời gian này, Napoléon đã viết một bài báo, có tên
là “Souper de Beaucaire” qua đó ông kêu gọi các
người cộng hòa phải đoàn kết chung quanh nhóm
Jacobin, là những người càng ngày càng trở nên cấp
tiến hơn. Tới cuối tháng 8-1793, đạo quân của Hội
Nghị Quốc Ước đã chiếm được thành phố Marseille
nhưng đã bị chặn lại tại thành phố Toulon là căn cứ
của các kẻ bảo hoàng, những người này đang kêu gọi
sự trợ giúp của quân đội Anh. Trong một trận đánh
tại Toulon, do vị chỉ huy Pháo Binh của đạo quân
cách mạng bị thương và cũng do lời đề nghị của ủy
viên chính trị Antoine Saliceti là một người đảo
Corsica và là bạn với gia đình, Napoléon được đề
nghị giữ chức chỉ huy trưởng Trung Đoàn Pháo Binh,
được thăng cấp bậc Thiếu Tá vào tháng 9 và tham dự
vào công cuộc vây hãm thành phố Toulon. Chính tại
nơi này, Napoléon đã bộc lộ khả năng của một vị
tướng tài và một nhà lãnh đạo uy dũng.
Vào tháng 12-1793, Napoléon ra lệnh đặt các khẩu đại
bác ở trên cao, hướng về hải cảng Toulon và bắn vào
các tầu chiến Anh, vì vậy hạm đội Anh phải rút lui
và quân Cách Mạng Pháp đã chiến thắng tại Toulon. Do
chiếm được thành phố này, Napoléon được phong chức
Thiếu Tướng (Brigadier General) lúc mới 24 tuổi.
Augustin de Robespierre, ủy viên chính trị của Quân
Đội Cách Mạng Pháp, đã phải gửi cho người anh là
Maximilien Robespierre khi đó là người đứng đầu
chính quyền Pháp và là một trong các nhà lãnh đạo
của thời kỳ khủng bố, một bức thư ca tụng “công lao
ưu việt” của viên sĩ quan trẻ Napoléon Bonaparte,
thuộc đảng Cộng Hòa. Napoléon đã thành công vì biết
áp dụng khéo léo một kỹ thuật quân sự mới là Pháo
Binh vào chiến tranh.
Tháng 2-1794, Napoléon được bổ nhiệm làm chỉ huy
trưởng lực lượng Pháo Binh của đội quân Pháp trú
đóng tại nước Ý, nhưng khi Maximilien Robespierre bị
truất quyền vào ngày 9 tháng Thermidor (27-7-1794)
thì Napoléon liền bị bắt về tội âm mưu và phản bội,
vì đã là người được Robespierre che chở. Napoléon
được trả lại tự do vào tháng 9 nhưng không được phục
hồi quyền chỉ huy. Vào tháng 3 năm sau, Napoléon
được đề nghị chức vụ chỉ huy lực lượng Pháo Binh
miền Tây để chống lại lực lượng phản cách mạng tại
miền Vendée nhưng ông đã từ chối vì cho là không có
tương lai. Napoléon trở về Paris.
Cuộc sống tại thành phố Paris đối với Napoléon đã
không dễ chịu, nhất là khi ông lại liên quan tình
cảm với nàng Desirée Clary, con gái của một thương
gia giàu có thuộc miền Marseille và là em của chị
dâu Julie, người đã lấy anh Joseph. Napoléon đã
không thể xin được một chức vụ nào vì nhiều nhà
chính trị thời đó e ngại sự liên kết của Napoléon
với nhóm “Montagnard” là những nhân vật cấp tiến của
Hội Nghị Quốc Ước, họ cũng e ngại các tham vọng của
Napoléon. Vì tài năng không được sử dụng, Napoléon
dự định đi xa phục vụ cho việc canh tân quân đội của
quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ.
3- Thời kỳ Hội Đồng Chấp
Chính.
Vào tháng 5 năm 1795, khi Napoléon đang sống tại
thành phố Paris thì Hội Nghị Quốc Ước đưa ra trưng
cầu dân ý bản hiến pháp mới của năm thứ ba thuộc Nền
Cộng Hòa Thứ Nhất, cùng với các đạo luật theo đó hai
phần ba nhân viên của Hội Nghị Quốc Ước sẽ được bầu
lại vào các hội nghị lập pháp mới. Cũng vào giai
đoạn này, các người bảo hoàng muốn tái lập chế độ
quân chủ, nên đã xúi giục dân chúng Paris nổi loạn,
khiến cho cuộc trưng cầu dân ý không thể thực hiện
được. Lúc bấy giờ, Tử Tước Paul de Barras là người
được Hội Nghị Quốc Ước giao cho các quyền lực, đã
không tin cậy vào vị chỉ huy quân đội của Bộ Nội Vụ
và do được biết tới chiến thắng của Napoléon tại
Toulon, nên đã chỉ định Napoléon làm chỉ huy phó.
Ngày 13 tháng Vendemaire năm thứ 4, tức là ngày
5-10-1795, khi đám đông biểu tình rầm rộ trước Điện
Tulleries, Napoléon đã hạ lệnh đặt các khẩu đại bác
và bắn thẳng vào đám người biểu tình. Hàng trăm
người chết và bị thương. Đường phố Paris nhờ vậy sớm
trở lại yên tĩnh. Napoléon đã cứu được Hội Nghị Quốc
Ước và chế độ Cộng Hòa, và rồi trở thành chỉ huy
trưởng của quân đội thuộc Bộ Nội Vụ, nhờ đó biết
được tất cả các tiến triển chính trị tại thành phố
Paris. Napoléon được phong Trung Tướng và cũng là vị
cố vấn quân sự cho chính phủ mới, là Hội Đồng Chấp
Chính (The Directory) với Paul de Barras là một
trong năm nhân vật điều khiển Hội Đồng này. Chính
vào thời gian này, Napoléon đã làm quen với góa phụ
của Tướng Alexandre de Beauharnais, một người đã
chết trên đoạn đầu đài trong thời kỳ khủng bố. Bà
góa phụ này hơn Napoléon 6 tuổi, tên là Josephine
Tascher de la Pagerie, là một người gốc gác thuộc
hòn đảo Martinique miền Tây Ấn, có hai con và nhiều
mối tình với vài nhân vật danh giá.
Cũng vào thời gian này, Napoléon đã tỏ ra trung
thành với Hội Đồng Chấp Chính nhờ công lao giải tán
một nhóm người Cộng Sản chủ trương do Francois
Babeuf và Filippo Buonarroti, một người Ý mà
Napoléon đã quen biết từ đảo Corsica.
Vào tháng 3 năm 1796, Napoléon được cử làm Tư Lệnh
đạo quân Pháp tại Ý Đại Lợi, chỉ huy một chiến dịch
mà Hội Đồng Chấp Chính trù liệu rằng Napoléon sẽ
ngăn chặn đạo quân Áo đóng tại nước Ý trong khi các
đạo quân Pháp lớn hơn sẽ băng qua nước Đức để đánh
vào thành phố Vienna là thủ đô của nước Áo. Napoléon
đã cưới Josephine de Beauharnais rồi 2 ngày sau, lên
đường qua nước Ý, nhận chức vụ. Khi tới Bộ Chỉ Huy
quân đội Pháp đóng tại Nice, ông thấy rằng đội quân
này, với quân số 43,000 người nhưng thực ra chỉ có
30,000 binh lính vừa thiếu ăn, vừa thiếu mặc, thiếu
trang bị và không được trả lương đầy đủ. Ngày 28
tháng 3 năm 1796, Napoléon đã nói trước quân đội:
“Hỡi các binh sĩ, các người trơ trụi, thiếu ăn. Các
tỉnh giàu có và các đô thị to lớn sẽ ở trong quyền
lực của các người và tại các nơi đó, các người sẽ
tìm thấy danh dự, vinh quang và tài sản. Hỡi các
binh sĩ của miền Ý Đại Lợi, các người cần phải có
can đảm và cương quyết”.
Ngày 12 tháng 4 năm đó, Napoléon đã đánh bại đạo
quân Áo, chia cắt lực lượng này với đạo quân Sardina
rồi tiến vào thành phố Turin. Vua của xứ Sardina là
Victor Amadeus III phải xin đình chiến rồi sau Hiệp
Ước Hòa Bình tại Paris vào ngày 15-5, hai xứ Nice và
Savoy do người Pháp chiếm từ năm 1762, được sát nhập
vào nước Pháp. Vào thời gian này, có một kế hoạch
cải biến nước Ý theo chế độ cộng hòa do một số nhà
ái quốc người Ý, lãnh đạo do Buonarroti, nhưng ông
này đã bị bắt cùng với Babeuf vì chống lại Hội Đồng
Chấp Chính. Trước hoàn cảnh chính trị của nước Ý,
Napoléon đã cho lập nên một chế độ cộng hòa tại
Lombardi nhưng vẫn cho theo dõi các nhà lãnh tụ Ý,
và vào tháng 10 năm 1796, Napoléon đã dựng nên nước
Cộng Hòa Cisalpine bằng cách phối hợp xứ Modena và
Reggio nell' Emilia với các miền đất thuộc Giáo
Hoàng là Bologna và Ferrara đang do quân đội Pháp
chiếm đóng.
Khi lực lượng Pháp do Napoléon chỉ huy bao vây
Mantua, các đoàn quân của nước Áo đã bốn lần vượt
qua rặng núi Alps để tiếp cứu Mantua nhưng quân Áo
đã bị Napoléon đánh bại. Tháng 1 năm 1797, đoàn quân
Áo phải đầu hàng tại Rivoli và thành trì Mantua thất
thủ. Sau đó, Napoléon đưa quân tiến tới Vienna. Khi
còn cách thủ đô nước Áo 100 cây số, người Áo đã xin
đình chiến. Nước Áo bằng lòng nhường miền nam của xứ
Hòa Lan cho nước Pháp và công nhận Cộng Hòa Lombardy
thuộc về nước Pháp. Napoléon lo việc củng cố các chế
độ cộng hòa tại miền bắc nước Ý là Cộng Hòa Ligurian
(Genoa) và Cộng Hòa Cisalpine. Một số nhà ái quốc
người Ý vào lúc này đã hy vọng rằng những phát triển
chính trị này sẽ dẫn tới việc thành lập một quốc gia
cộng hòa Ý theo kiểu mẫu của nước Pháp.
Các chiến dịch tại nước Ý do Napoléon điều khiển đã
chứng tỏ thiên tài quân sự của ông, và cũng tại nước
Ý, Napoléon đã làm phát triển một chiến thuật quân
sự rất thành công, dùng làm căn bản cho các trận
đánh lớn về sau. Napoléon đã dùng bộ óc bén nhậy của
mình để quan sát các địa thế, hiểu rõ các chi tiết
địa hình nào sẽ làm cản trở việc tiến quân. Ông sớm
đoán trước được các kế hoạch của kẻ địch. Khi bắt
đầu vào trận chiến, Napoléon đã để dự trữ một lực
lượng lớn, quan sát rõ ràng mặt trận và tìm ra điểm
yếu nhất của lực lượng địch, dồn sức mạnh quân sự
vào điểm đó, chia hai lực lượng địch rồi vào thời
điểm quyết định, dùng lực lượng dự trữ hùng hậu,
thanh toán ngay một nửa địch quân và kẻ địch đã phải
kinh hoàng trước sức tấn công bất ngờ như vũ bão.
Napoléon Bonaparte là vị danh tướng có một khả năng
đặc biệt, đó là nhận ra được thời điểm tốt nhất để
tấn công. Bằng chiến thuật này, trong 11 ngày của
năm 1796, Napoléon đã đánh bại đội quân Sardina đông
gấp 5 lần. Napoléon đã theo đúng “nguyên tắc chia và
chinh phục” (the principle of divide and conquer).
Napoléon còn tỏ ra có thiên tài về tâm lý và tuyên
truyền. Ông đã nói trước hàng quân : “Trong hai tuần
lễ, các người đã đạt được 6 chiến thắng. Các người
đã bắt 15,000 tù binh. Các người đã giết chết hay
làm bị thương 10,000 địch quân. Thiếu thốn đủ thứ,
các người đã hoàn thành mọi nhiệm vụ. Các người đã
chiến thắng mà không có đại bác, vượt qua sông mà
không có cầu, tiến bước mà không có giầy, đóng quân
mà không có rượu mạnh, và thường không có cả bánh
mì. Chỉ có các đoàn quân của nước Cộng Hòa, chỉ có
các người lính của Tự Do mới có khả năng chịu đựng
những thiếu thốn mà các người đang phải chịu đựng. .
. Tất cả các người đang náo nức mang vinh quang về
cho dân tộc Pháp, làm khiêm nhường các vị vua kiêu
căng dám xiềng xích chúng ta. Các người hãy trở về
làng mạc của các người và nói một cách hãnh diện
rằng "ta đã ở trong đoàn quân chinh phục Ý Đại Lợi"
"
Vào mùa xuân năm 1797, các người bảo hoàng đã thành
công trong cuộc bầu cử tại nước Pháp khiến cho
Napoléon khuyên Hội Đồng Chấp Chính hãy cản trở họ
và nếu cần thì dùng sức mạnh. Tới tháng 7 năm đó xẩy
ra một cuộc đảo chính chống lại phe bảo hoàng, nhưng
thất bại. Vì vậy Napoléon đã phái tướng Pierre
Augereau về Paris. Cùng với một số sĩ quan và binh
lính, cuộc đảo chính của tướng Augereau vào ngày 18
tháng Fructidor (4 tháng 9-1797) thành công, đã loại
bỏ các người bảo hoàng khỏi chính phủ và khỏi các
hội đồng lập pháp và đồng thời, cũng làm tăng uy tín
của Napoléon.
Trong chưa đầy một năm, Napoléon đã chiến thắng 14
trận lớn và hơn 70 trận nhỏ. Đội quân của ông đã
chinh phục các miền giàu có và những nơi này đã phải
nuôi ăn và đóng góp cho quân đội Pháp. Hàng triệu
quan tiền được gửi về nước Pháp để làm giảm nhẹ các
gánh nặng tài chính của chính phủ trung ương. Vào
tháng 10 năm 1797, nước Pháp và nước Áo đã ký kết
Hòa Ước Campo Formio nhờ đó lãnh thổ Pháp được mở
rộng. Napoléon trở về Paris và được đón mừng như một
vị anh hùng. Napoléon Bonaparte đã mang lại vinh
quang cho nước Pháp sau 5 năm chiến tranh trên lục
địa của châu Âu.
4- Xâm lăng Ai Cập.
Sau khi đã chiến thắng được nước Áo và trở về Paris,
Napoléon mang nhiều tham vọng lớn nhưng ông thấy
chưa có đủ ảnh hưởng tác động tới chính quyền trung
ương. Vào thời bấy giờ, tất cả các nước trên lục địa
châu Âu đều phải quy phục nước Pháp, ngoại trừ nước
Anh.
Vào cuối năm 1797, Hội Đồng Chấp Chính muốn thực
hiện một cuộc đổ bộ qua nước Anh nên đã chỉ định
Napoléon chỉ huy công cuộc viễn chinh qua eo biển
Manche. Sau một cuộc thanh tra ngắn hạn vào tháng 2
năm 1798, Napoléon tuyên bố rằng cuộc xâm chiếm nước
Anh chỉ thực hiện được sau khi nước Pháp làm chủ
được mặt biển và ông đã đề nghị nên đánh phá các
nguồn tài nguyên của nước Anh bằng cách chiếm đóng
xứ Ai Cập và như vậy, đe dọa con đường dẫn tới Ấn
Độ. Napoléon muốn bắt chước lối chinh phục của Đại
Đế Alexander bằng cách chiếm đoạt đế quốc phía đông
gồm Ai Cập, Ấn Độ, các miền đất Trung Đông và Viễn
Đông. Đề nghị của Napoléon được vị Bộ Trưởng Ngoại
Giao là ông Talleyrand ủng hộ và được các nhân vật
lãnh đạo Hội Đồng Chấp Chính chấp thuận ngay, vì
chính các vị này cũng đang muốn đẩy đi xa vị tướng
trẻ nhiều tham vọng là Napoléon Bonaparte.
Vào tháng 5 năm 1798, Napoléon bắt đầu cuộc viễn
chinh tại Ai Cập với 38,000 quân. Các chiến thắng
bắt đầu: pháo đài Malta của các hiệp sĩ Hospitallers
(the Knights Hospitallers of St. John of Jerusalem)
bị thất thủ vào ngày 10-6-1798, rồi thành phố
Alexandria của Ai Cập đầu hàng vào ngày 1 tháng 7.
Napoléon đã đánh bại các kẻ cai trị xứ Ai Cập có tên
là nhóm Mamelukes, trong trận đánh tại các Kim Tự
Tháp gần thành phố Cairo. Rồi đồng bằng sông Nile bị
chinh phục rất nhanh chóng. Nhưng, vào ngày
1-8-1798, hạm đội Pháp bỏ neo tại Vịnh Abu Qir đã bị
hoàn toàn phá hủy bởi hạm đội Anh của Đô Đốc Horatio
Nelson trong trận thủy chiến “Dòng Sông Nile” (the
Battle of the Nile) khiến cho đoàn quân Pháp bị mắc
kẹt trong miền đất mà họ đã chinh phục được và bị
cắt đứt các nguồn tăng cường và tiếp tế. Cũng vào
thời gian này, Napoléon đã cố gắng đưa vào xứ Ai Cập
các định chế chính trị, cách quản trị và tài năng kỹ
thuật của tây phương. Quốc gia bảo hộ Ai Cập là Thổ
Nhĩ Kỳ bèn liên minh với các nước Anh, nước Nga và
tuyên chiến với nước Pháp vào tháng 9 năm đó. Để
ngăn chặn cuộc tấn công của Thổ Nhĩ Kỳ vào xứ Ai Cập
và có lẽ cũng vì muốn trở về đất Pháp bằng con đường
Anatolia, Napoléon đã đưa quân qua Syria vào tháng 2
năm 1799, tiến tới pháo đài Acre (ngày nay là Akko,
thuộc nước Do Thái) và đoàn quân Pháp đã bị chặn
đánh thảm bại tại nơi này. Napoléon đành phải rút về
Ai Cập và khi tới Abu Qir, gần Vịnh Abu Qir, ông đã
đánh thắng 10,000 quân Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 7 năm
1799.
Trận đánh “Dòng Sông Nile” đã cho người châu Âu thấy
rằng Napoléon Bonaparte không phải là vô địch và các
nước Anh, Áo, Nga, Thổ đã họp thành một liên minh
quân sự mới, chống lại nước Pháp. Từ mùa xuân năm
1799, quân đội Pháp bị thua nhiều trận tại nước Ý và
đã phải rút lui khỏi phần lớn bán đảo Ý Đại Lợi.
Những thất bại quân sự này đã gây nên các xáo trộn
trong nước Pháp. Ngày 30 tháng Prairial (18-6-1799),
một cuộc đảo chính đã loại ra ngoài Hội Đồng Chấp
Chính các nhân vật ôn hòa và đưa vô Hội Đồng này các
đảng viên Jacobin, là các người cực đoan. Nhưng hoàn
cảnh chính trị vẫn không ổn định. Một trong các nhân
vật lãnh đạo Hội Đồng Chấp Chính là ông Emmanuel
Sieyès đã tin chắc rằng chỉ có chế độ độc tài quân
sự mới ngăn ngừa được việc phục hưng chế độ quân
chủ. Ông Sieyès tuyên bố: “Tôi đang tìm kiếm một cây
gươm”. Hội Đồng Chấp Chính đã ra lệnh cho Napoléon
trở về đất Pháp.
Tình hình chính trị tại nước Pháp vào lúc này rất
thuận tiện cho Napoléon. Việc phục hồi nhóm đảng
viên Jacobin khiến cho các kẻ ôn hòa lo ngại sẽ xẩy
ra một thời kỳ khủng bố mới, họ trông đợi một chính
quyền mạnh, ngăn chặn được khuynh hướng cấp tiến
này. Cũng vào thời gian này, Hội Đồng Chấp Chính đã
thiết lập nên 4 nước cộng hòa vệ tinh là các xứ
Batavian (Hòa Lan), Helvetian (Thụy Sĩ), Roman (La
Mã) và Parthenopean (Naples). Các nhà lãnh đạo nước
Áo, hay dòng họ Hapsburg, vì thế rất lo ngại ảnh
hưởng của nước Pháp tại các miền đất Ý thuộc nước Áo
trước kia, và Sa Hoàng Paul I (trị vì 1796-1801) lo
sợ Napoléon sẽ làm hư hại các quyền lợi của nước Nga
tại vùng Địa Trung Hải. Đế Quốc Pháp mới mẻ đã làm
lệch đi sự thăng bằng chính trị của châu Âu nên các
nước Anh, Áo và Nga đã lập nên liên minh quân sự thứ
hai và trong năm 1799, quân đội Nga dưới quyền của
Tướng Alexander Suvorov (1729-1800) đã nhiều lần
đánh bại quân đội Pháp và Tướng Suvorov trở nên vị
anh hùng của châu Âu. Vào tháng 8 năm 1799, quân
Pháp bị đẩy ra khỏi lãnh thổ Ý và phần lớn các nước
cộng hòa Pháp bị sụp đổ. Chính vào lúc này, lãnh thổ
Pháp đang đứng trước nguy cơ bị xâm lăng. Có nhiều
âm mưu phản cách mạng. Chế độ Cộng Hòa đang cần cấp
cứu. Tháng 8 năm 1799, Napoléon Bonaparte lên tầu,
lẻn về Pháp, giao quyền chỉ huy đoàn quân Ai Cập cho
Tướng Jean Kleber.
5- Tổng Tài Thứ Nhất của
nước Pháp.
Cùng với một số người thân tín, Napoléon rời Ai Cập
vào ngày 22-8-1799 bằng hai con tầu nhỏ và rất may,
họ về tới đất Pháp an toàn, tránh được vòng phong
tỏa của Hải Quân Anh. Napoléon tới Paris vào ngày 14
tháng 10 năm đó. Tin tức về chiến thắng tại Abu Qir
đã khiến cho nhân dân Pháp hân hoan đón mừng sự trở
về của người anh hùng trẻ tuổi Napoléon. Cũng vào
lúc này, quân đội Pháp đã thắng lớn tại Hòa Lan và
Thụy Sĩ, tránh được cảnh nước Pháp bị xâm lăng đồng
thời các lực lượng phản cách mạng trong nước cũng bị
thất bại. Nước Cộng Hòa Pháp đã được cứu vãn nhưng
ông Sieyès vẫn muốn tiếp tục kế hoạch cũ: lưỡi gươm
Napoléon đã tới với ông.
Vào cuối tháng 10 năm 1799, Sieyès và Napoléon đã
thực hiện một cuộc đảo chính vào hai ngày 18 và 19
tháng Brumaire, năm thứ 8 của Lịch Cách Mạng, tức là
ngày 9-10 tháng 11 năm 1799. Kết quả của cuộc đảo
chính này là các hội đồng lập pháp bị giải tán, các
đại biểu đối lập bị loại bỏ, một chính quyền mới
được thành lập với ba tổng tài (consul) là Napoléon,
Sieyès và Pierre Robert Ducos. Một hiến pháp mới đã
được nhân dân Pháp chấp thuận, theo đó Napoléon được
bầu làm “Tổng Tài Thứ Nhất” (first consul) còn hai
vị tổng tài kia chỉ làm cố vấn cho Napoléon. Sau 10
năm cách mạng với các xáo trộn phức tạp, nhân dân
Pháp mong muốn có một vị lãnh đạo mạnh, nhờ vậy vào
lúc này, Napoléon có thể cai trị nước Pháp như một
nhà độc tài. Napoléon Bonaparte đã là chủ nhân của
cả nước Pháp.
Khi lên cầm quyền “Tổng Tài Thứ Nhất”, Napoléon mới
30 tuổi, là một con người lùn và gầy, với mái tóc
cắt sát nên được gọi là “le petit tondu” (chàng
thanh niên nhỏ người có mái tóc cắt sát). Người dân
Pháp vào thời gian này không biết rõ về cá nhân của
Napoléon, họ đặt tin tưởng vào một nhân vật luôn
luôn chiến thắng vì Napoléon là một chính trị gia
khôn khéo, đã che dấu hai lần thất bại tại Dòng Sông
Nile và tại pháo đài Acre. Người dân Pháp vẫn còn
ghi nhớ Hòa Ước Campo Formio, mang lại danh dự về
cho nước Pháp. Người dân Pháp trông đợi Napoléon sẽ
chấm dứt hệ thống chính quyền tham nhũng và không ổn
định của Hội Đồng Chấp Chính, củng cố các thành quả
chính trị và xã hội của Cách Mạng, cứu nguy và mang
lại Hòa Bình cho xứ sở.
Napoléon Bonaparte quả thực là một nhân vật thông
minh xuất chúng. Ông hiểu biết rất rõ về lịch sử và
luật pháp cũng như khoa học quân sự. Ông làm việc
không biết mệt, quyết định rất nhanh chóng và có
nhiều tham vọng không giới hạn. Napoléon chính là
con người của Cách Mạng Pháp bởi vì chính nhờ cuộc
Cách Mạng này mà ông sớm bước chân lên địa vị cao
sang và quyền lực bậc nhất của quốc gia. Napoléon
Bonaparte lại là con người của thế kỷ 19, người con
đích thực của Voltaire, là nhà chuyên chế được khai
sáng nhất (the most enlightened despot) của các nhà
độc tài chuyên chế: ông không tin tưởng vào chủ
quyền của nhân dân, vào các tranh đấu đại nghị, vào
các ý muốn của toàn dân. Napoléon đặt tin tưởng vào
lý luận (reasoning) hơn là lý trí (reason), cho rằng
các ý muốn dù được khai sáng (enlightened) hay cương
quyết tới đâu cũng cần đến sự yểm trợ của lưỡi lê
(the support of bayonets). Napoléon đã coi thường dư
luận và tin rằng ông có thể hướng dẫn hay bóp méo dư
luận theo ý mình. Napoléon Bonaparte được người dân
Pháp gọi là vị tướng có tính “dân sự” nhất (the most
“civilian” of generals) nhưng mãi mãi ông vẫn là một
quân nhân.
Từ khi lên làm Tổng Tài Thứ Nhất, Napoléon đã áp đặt
chế độ độc tài quân sự lên toàn thể nước Pháp và
thực chất của đặc tính này nằm trong Hiến Pháp của
năm thứ 8 (4 Nivose, 25-12-1799) do Sieyès thảo ra.
Hiến Pháp này không đề cập gì tới các nguyên tắc “tự
do, bình đẳng và huynh đệ” của cuộc Cách Mạng Pháp,
không bảo đảm “dân quyền” (the rights of man) mà lại
ban cho vị Tổng Tài Thứ Nhất các quyền lực vô hạn.
Napoléon Bonaparte với danh nghĩa Tổng Tài này, có
thể chỉ định các bộ trưởng, quan tòa, tướng tá, nhân
viên Hội Đồng Quốc Gia, công chức, và cả các nhân
viên của hội đồng lập pháp mà theo lý thuyết, những
vị này phải được bầu lên do phổ thông đầu phiếu. Sau
một cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 2 năm 1800, Hiến
Pháp năm thứ 8 đã được chấp thuận.
Các chương trình cải tổ của Napoléon bắt đầu. Đứng
đầu chính quyền là Hội Đồng Quốc Gia (the Council of
State), gồm các chuyên viên tạo nên một Nội Các
trung ương, chủ tọa do Napoléon và chỉ chịu trách
nhiệm trước Napoléon. Các xáo trộn về quản trị hành
chánh trong thời kỳ Cách Mạng đã được sửa đổi. Một
nhóm các bộ sở được thành lập để thi hành việc kiểm
soát từ trung ương, chẳng hạn như Bộ Tài Chính lo về
thuế vụ, Bộ Nội Vụ lo an ninh trong xứ. Lãnh thổ
được chia thành nhiều tỉnh (departements), tổng
(cantons), làng (communes), nhưng các nhân viên hành
chánh đều do trung ương bổ nhiệm và chịu trách nhiệm
trước chính quyền Paris. Việc tập trung về trung
ương của nền tài chính cũng được thực hiện do việc
thiết lập ra Ngân Hàng Pháp Quốc (the Bank of
France) trong đó 200 cổ đông chính, tạo nên Hội Đồng
Quản Trị, là các nhà trí thức tư sản của thành phố
Paris. Hệ thống huân chương được quy định với Bắc
Đẩu Bội Tinh (the Legion of Honor) là bậc cao cấp
nhất. Ngành Tư Pháp cũng bị thay đổi đáng kể do việc
phổ biến Đạo Luật Napoléon (the Code Napoléon), làm
tiêu hủy các luật lệ khác nhau thuộc các tỉnh khác
nhau của nước Pháp, tạo nên một hệ thống luật pháp
thống nhất, không đặt căn cứ trên các điều lệ đã có
từ trước mà trên lý trí (reason). Đạo luật này công
nhận mọi người bình đẳng trước Pháp Luật bất kể cấp
bậc hay tài sản, nhưng đã đặt quyền lợi của Quốc Gia
lên trên quyền lợi của Cá Nhân. Bộ Luật Napoléon đã
là một kiểu mẫu cho các nhà cải tổ Luật Pháp trên
toàn thế giới. Các quan tòa từ nay không còn được
bầu lên từ các địa phương như trong thời kỳ Cách
Mạng, mà được bổ nhiệm từ trung ương. Tổ chức cảnh
sát cũng được tăng cường. Nền Giáo Dục được cải tiến
thành một dịch vụ công cộng chính yếu, giáo dục
trung học mang tính cách bán quân sự, các Đại Học có
ban giảng huấn được tổ chức lại. Napoléon cũng lập
ra Đại Học Pháp Quốc (the University of France)
nhưng ngành giáo dục tiểu học còn bị thiếu sót.
Napoléon cũng đồng ý với quan điểm của Voltaire theo
đó người dân cần tới một tôn giáo, dù cho cá nhân
của ông không quan tâm đến niềm tin tôn giáo. Giáo
Hoàng Pius VII vào tháng 3 năm 1800, đã ký kết với
Napoléon một bản điều ước (concordat) công nhận Nền
Cộng Hòa Pháp, chấp nhận quốc gia có quyền bổ nhiệm
giới tu sĩ (the clergy). Tổ chức quân đội được Tổng
Tài Napoléon chú ý tới nhiều nhất: chế độ quân dịch
cưỡng bách được thi hành nhưng trong đó cũng chấp
nhận sự thay thế trong việc tòng quân, các lính quân
dịch mới được pha trộn với các binh lính thiện chiến
cũ và mọi người lính đều có cơ hội được thăng chức
lên các cấp bậc cao nhất. Hàn Lâm Viện Quân Sự Saint
Cyr được thành lập, mở cửa đón nhận các thanh niên
thuộc các gia đình tư sản theo đuổi binh nghiệp.
Ngoài ra, Trường Đại Học Bách Khoa lập nên do Hội
Nghị Quốc Ước trước kia, nay được quân sự hóa để đào
tạo ra các sĩ quan Pháo Binh và Công Binh.
Như vậy, Napoléon Bonaparte đã kết hợp toàn thể nước
Pháp vào cách kiểm soát của chính quyền trung ương
và đây là một di sản lâu dài nhất. Napoléon đã tự
cho mình là người thừa kế và bảo vệ công cuộc Cách
Mạng Pháp. Đối với giai cấp trung lưu, ông đã làm ổn
định nền tài chính, tổ chức lại nền hành chính và xã
hội cho có trật tự, lập ra các chương trình xây dựng
đường lộ và sông đào. Lợi tức quốc gia được phục hồi
bằng các thứ thuế trực thu và gián thu và nhờ vậy,
đồng “franc” có giá trị ổn định. Đối với nông dân,
đất đai của họ được bảo đảm, các loại thuế phong
kiến mà người dân phải đóng nạp đã bị Luật Pháp mới
chấm dứt. Giới lao động cũng có công việc làm ăn do
các nhu cầu của quân đội và của một xã hội đang cải
tiến. Napoléon cũng bảo đảm cho mọi người dân quyền
bình đẳng trước Pháp Luật, bình đẳng về các cơ hội
thăng tiến, các hình phạt tàn ác bị tiêu hủy và nền
giáo dục được mở ra cho những người thông minh, hiếu
học. Và trước mọi người dân trong nước, Napoléon
Bonaparte đã hứa hẹn không chỉ nền an ninh quốc gia
mà còn có phương cách bành trướng lãnh thổ và sự
vinh quang quân sự.
Tổng Tài Thứ Nhất Napoléon Bonaparte đã không vừa
lòng với việc cai trị lãnh thổ nước Pháp mà còn muốn
bành trướng ảnh hưởng Pháp ra khắp các xứ Tây Phương
khác. Mùa đông năm 1799 và mùa xuân năm 1800,
Napoléon lo luyện tập quân đội để chuẩn bị tấn công
nước Áo vì vào thời gian này, nước Nga đã rút lui
khỏi liên minh chống Pháp. Napoléon nhận thấy ngay
địa điểm chiến lược là liên bang Thụy Sĩ vì từ nơi
này, ông có thể đánh vào sườn các đoàn quân Áo đóng
tại nước Đức hay nước Ý. Kinh nghiệm trước kia đã
khiến ông chọn nước Ý. Napoléon đưa quân qua đường
đèo St. Bernard trước khi tuyết tan, bao vây quân
đội Áo tại Genoa. Trận đánh Marengo của Napoléon đã
khiến quân Pháp kiểm soát được thung lũng sông Po,
tới tận Adige rồi vào tháng 12-1800, một đoàn quân
Pháp khác cũng đã đánh bại quân đội Áo tại nước Đức.
Nước Áo bị bắt buộc phải ký Hòa Ước Luneville vào
tháng 2 năm 1801, công nhận nước Pháp có quyền chiếm
đóng các miền sông Rhine, dãy núi Alps và dãy núi
Pyrenées.
Tới lúc này, chỉ còn nước Anh là quốc gia duy nhất
chống lại Napoléon. Các thương thảo hòa bình giữa
Anh và Pháp được bắt đầu tại London vào tháng
10-1801 rồi Hiệp Ước Hòa Bình được ký kết tại Amiens
vào ngày 27-3-1802. Châu Âu từ nay có hòa bình được
vãn hồi. Uy tín của Tổng Tài Thứ Nhất Napoléon
Bonaparte tăng lên rất cao.
Vào năm 1802, Napoléon khuyên các nhà lập pháp rằng
để có đủ yếu tố ổn định, giới hạn 10 năm của Tổng
Tài Thứ Nhất nên được loại bỏ, và vào tháng 5-1802,
đã có quyết định để dân chúng Pháp tham dự một cuộc
trưng cầu dân ý theo đó “Napoléon Bonaparte có nên
làm Tổng Tài suốt đời hay không?”. Vào tháng 8 năm
đó, nhân dân Pháp đã chấp thuận Napoléon làm Tổng
Tài “suốt đời”, với quyền chỉ định người kế nghiệp
và tùy ý tu chính Hiến Pháp.
Vào đầu thế kỷ 19, nước Anh muốn lật đổ Napoléon nên
đã trợ giúp cho các người Pháp bảo hoàng để họ tiếp
tục thực hiện các rối loạn và âm mưu. Khi một cuộc
âm mưu do người Anh trợ giúp bị khám phá vào năm
1804, Napoléon cho rằng cần phải phản ứng thật mạnh
để làm cho các kẻ chống đối phải khiếp sợ. Trong
cuộc âm mưu kể trên, cảnh sát Pháp đã tin rằng người
đứng đầu là hầu tước trẻ tuổi d' Enghien, một biểu
tượng của dòng họ Bourbon và ông này đang sinh sống
cách biên giới Đức vài dậm đường. Rồi do sự chấp
thuận của Talleyrand và của Cảnh Sát Trưởng Joseph
Fouché, vị hầu tước trẻ bị bắt cóc trên miền đất
trung lập, bị đưa về Vincennes , bị xét xử và bị bắn
chết. Hành động này đã làm tăng uy tín của ông
Fouché nhưng cũng khiến cho giới quý tộc cũ thêm bất
mãn và chống đối.
Cũng vì muốn củng cố địa vị, Cảnh Sát Trưởng Fouché
đã khuyên Napoléon rằng để tránh các âm mưu lật đổ,
nên đổi chế độ “Tổng Tài suốt đời” thành thể chế “đế
quốc” (empire) có thừa kế và như thế, các kẻ chống
đối không còn hy vọng thay đổi chế độ bằng phương
cách ám sát. Vào ngày 28 tháng 5 năm 1804, Đế Chế
được công bố thành hình mặc dù không có thay đổi
nhiều trong cách tổ chức chính quyền của nước Pháp,
ngoài một số cơ chế tương tự như đế chế cũ. Đầu
tiên, Napoléon muốn được phong chức bởi Giáo Hoàng
nhờ đó, việc đăng quang sẽ gây ra nhiều ấn tượng tốt
đẹp đối với dân chúng Pháp và các quốc gia khác, và
đặc biệt mang tính cách chính thức hơn cả các nhà
vua Pháp. Giáo Hoàng Pius VII cũng đồng ý tới Paris
và trong buổi lễ đăng quang rực rỡ tổ chức vào ngày
2 tháng 12 năm 1804 tại Giáo Đường Notre Dame,
Paris, Hoàng Đế Napoléon Bonaparte đã nhận vương
niệm từ tay Giáo Hoàng và theo gương của
Charlemagne, Napoléon đã tự đặt vương niệm đó lên
đầu mình. Từ nay, là “Hoàng Đế của nước Pháp”,
Napoléon Bonaparte có quyền truyền lại ngai vàng cho
các con cháu. Các người trong gia đình Bonaparte đã
mang các danh xưng quý tộc. Việc phục hồi chế độ
quân chủ chuyên chế là một điều lăng nhục đối với
các người bảo hoàng và đối với các cựu chiến sĩ của
Cuộc Cách Mạng Pháp. Để dẹp tan các phản kháng,
Napoléon đã tăng cường công việc tuyên truyền, báo
chí bị kiểm duyệt gắt gao. Chế độ độc tài quân chủ
này đã cho phép Napoléon thực hiện các cuộc chiến
tranh trong nhiều năm mà không cần quan tâm tới dư
luận quần chúng Pháp. Tại phần đất Ý Đại Lợi,
Napoléon Bonaparte đã lãnh đạo nước Cộng Hòa
Cisalpine từ khi nước này được thành lập, vì thế vào
tháng 3 năm 1805, Napoléon Bonaparte được công bố
trở thành Vua của nước Ý và đã lên ngai vàng vào
tháng 5 năm đó tại Milan.
Napoléon Bonaparte là một nhà chính trị khôn khéo.
Mỗi lần muốn thay đổi Hiến Pháp theo chiều hướng
thiếu dân chủ, ông đều dùng tới phương pháp trưng
cầu dân ý và kết quả thu được rất có lợi cho
Napoléon: cuộc bỏ phiếu năm 1799-1800 chấp thuận
Napoléon và Hiến Pháp của Năm Thứ 8 có 3,011,107
phiếu thuận đối với 1,562 phiếu chống; rồi vào năm
1803, 3,568,885 phiếu thuận, đồng ý để Napoléon làm
Tổng Tài suốt đời so với 8,357 phiếu chống; còn cuộc
bỏ phiếu đồng ý Đế Chế đã mang lại kết quả là
3,572,329 phiếu thuận, trong khi phiếu chống là
2,579. Chắc chắn là các cử tri Pháp vào thời kỳ đó
đã bị các áp lực chính trị và các kết quả công bố có
phần bị sửa đổi, nhưng không còn nghi ngờ gì khi đại
đa số dân chúng Pháp đã ủng hộ Napoléon. Các vinh
quang quân sự do Napoléon mang lại đã hấp dẫn những
người có tinh thần quốc gia đang lên, và các chính
sách ổn định kinh tế quốc nội đã khiến cho mọi người
dân không còn muốn các biến động cách mạng hay các
thay đổi chính quyền, bởi vì Napoléon đã làm thay
đổi một số chính sách cách mạng cũ và thêm vào các
cải tổ theo những nhận xét của các nhà tư tưởng mới.
Nhờ các cải tiến chính sách, niềm tin của dân chúng
Pháp đã tăng lên từ dưới, và quyền lực đã phát triển
từ trên.
Từ nay tại nước Pháp, mọi người với quá trình chính
trị khác nhau đều được đặt vào nền hành chính đế chế
có tính trung ương tập quyền, giống như dưới triều
đại của Vua Louis 14. Napoléon là một nhà chuyên chế
khai sáng (enlightened despot). Napoléon chỉ quan
tâm đến khả năng của những kẻ dưới quyền, dù cho
trước kia họ là cựu đảng viên Jacobin hay là các
người di cư. Đế chế này đã đặt căn bản trên một nền
móng chính trị rộng rãi. Napoléon đã tưởng thưởng
trọng hậu các kẻ có công, kể cả bằng các tước hiệu
cao cấp. Do việc tái lập đế chế, đã có hàng chục hầu
tước, hàng trăm bá tước và công tước. Napoléon đã
phong cho các tướng lãnh và sĩ quan xuất sắc cấp bậc
“Thống Chế” (marshal) và tưởng thưởng Bắc Đẩu Bội
Tinh (Legion of Honor) và với huy chương này, họ
được tiền trợ cấp hàng năm. Napoléon đã nhận xét
rằng “chế độ quý tộc luôn luôn tồn tại” (aristocracy
always exists), và khi bị phá bỏ thì chế độ đó đã
chuyển về các gia đình trung lưu giàu sang và có thế
lực. Như vậy, những người đứng đầu giai cấp trung
lưu Pháp của thời đại đó đã dần dần trở nên các nhà
quý tộc hoàng gia.
6- Napoléon và các trận
chiến 1800-1807.
Đối với nhiều người Pháp, Napoléon Bonaparte là con
người của Định Mệnh (the Man of Destiny), là nhà cai
trị xuất sắc nhất trong lịch sử của nước Pháp. Nhưng
đối với các người khác của châu Âu, Napoléon lại là
kẻ thù của các nền độc lập quốc gia. Các chinh phục
quân sự của Napoléon đã khiến cho nhiều miền đất tự
do khác phải quy phục nước Pháp, vì thế Napoléon bị
gọi là “con người ảm đạm trên lưng ngựa” (the
Sinister Man on Horseback), một kẻ độc tài đế quốc
với tham vọng không bao giờ thỏa mãn. Các oán hận
của các quốc gia và của người dân châu Âu khác đã
dần dần làm lung lay đế quốc của Napoléon Bonaparte.
Vào năm 1800, Sa Hoàng Paul của nước Nga đã thiết
lập nên Liên Minh Baltic của các quốc gia trung lập
(the Baltic League of Armed Neutrality) kết hợp các
nước Phổ, Đan Mạch, Thụy Điển và Nga, để chống lại
nước Anh. Sa Hoàng Paul còn muốn hợp tác với nước
Pháp để đẩy người Anh ra khỏi vùng đất Ấn Độ. Nhưng
kế hoạch kể trên đã bị sụp đổ khi Sa Hoàng Paul bị
ám sát, kế nghiệp là Sa Hoàng Alexander I. Cũng vào
mùa xuân năm 1800 này, Napoléon Bonaparte đã đưa
quân vượt qua dãy núi Alps, đánh bại quân đội Áo
trên miền đất Ý và qua Hiệp Ước Luneville (1801),
nước Áo phải công nhận nước Ý thuộc quyền của người
Pháp và để Napoléon vẽ lại bản đồ của nước Đức.
Sau Hiệp Ước Luneville, chỉ còn nước Anh đối đầu với
nước Pháp. Nước Anh đã chiếm được các thuộc địa của
Hòa Lan và Tây Ban Nha và hạm đội Anh của Đô Đốc
Nelson đã đẩy được người Pháp ra khỏi xứ Ai Cập. Năm
1802, Hòa Ước Hòa Bình Amiens được ký kết, đã chỉ
mang lại sự tạm thời đình chiến trong một năm vì sau
đó, Napoléon đang mưu toan thành lập một đế quốc
thuộc địa tại hòn đảo Haiti và vùng đất Louisiana
thuộc Bắc Mỹ mà nước Tây Ban Nha đã nhường lại cho
nước Pháp vào năm 1800.
Tại xứ Haiti, đa số người da đen địa phương đã vui
mừng khi Hội Nghị Quốc Ước hủy bỏ chế độ nô lệ,
nhưng khi các Tổng Tài đặt lại chế độ bất công kể
trên tại xứ Haiti thì Francois Toussaint L'
Ouverture (c. 1744-1803) và Jean Jacques Dessalines
(c. 1758-1806) đã cầm đầu các cuộc nổi dậy chống lại
người Pháp. Thêm vào đó, bệnh sốt vàng da đã gây tổn
thất lớn lao cho quân đội viễn chinh Pháp, khiến cho
Napoléon phải bỏ dở kế hoạch chinh phục Mỹ Châu. Năm
1803, Napoléon đã bán miền đất Louisiana cho Hoa Kỳ
với giá 80 triệu quan tiền.
Từ năm 1803 tới năm 1805, chỉ còn nước Anh là miền
đất Napoléon Bonaparte phải chinh phục và muốn vậy,
người Pháp phải đổ bộ lên đất Anh và ngược lại,
người Anh muốn đánh bại Napoléon thì phải lập nên
một liên minh trên lục địa châu Âu. Vào thời gian
này, Napoléon bắt đầu chuẩn bị công cuộc xâm lăng
nước Anh trên một quy mô rộng lớn. Gần 2,000 con tầu
chiến Pháp được thu về các hải cảng nằm giữa quân
cảng Brest và thành phố Antwerp trong khi đó, Đại
Quân Pháp tập trung tại Boulogne. Nhưng khó khăn vẫn
là làm sao vượt qua được eo biển Channel và muốn
vậy, người Pháp phải làm chủ được mặt biển.
Do Hải Quân Pháp còn thua kém Hải Quân Anh, hạm đội
Pháp cần tới sự giúp đỡ của Hải Quân Tây Ban Nha
nhưng dù vậy, hai hạm đội này cũng chỉ có thể đánh
bại một hạm đội Anh. Vào tháng 12 năm 1804, đã có
quyết định theo đó các hạm đội Pháp và Tây Ban Nha
sẽ tập trung tại quần đảo Antilles để nhử cho hạm
đội Anh tới đó mà tiêu diệt rồi về sau, trận đánh
trên biển Channel mới có hy vọng chiến thắng. Theo
kế hoạch, hạm đội Pháp do Đô Đốc Pierre de
Villeneuve từ Địa Trung Hải đã tới quần đảo Antilles
nhưng không thấy hạm đội Tây Ban Nha, rồi hạm đội
Pháp bị hạm đội của Đô Đốc Nelson săn đuổi. Đô Đốc
De Villeneuve phải cho đoàn tầu chạy về châu Âu, trú
ẩn tại hải cảng Cadiz thuộc nước Tây Ban Nha vào
tháng 7-1805 rồi tại đó, bị hạm đội Anh bao vây. Bị
Napoléon cho là hèn nhát, De Villeneuve đành phải
phá vòng vây và dù với sự trợ giúp của một hạm đội
Tây Ban Nha, hạm đội Pháp đã bị Hải Quân Anh tấn
công bên ngoài hải cảng Trafalgar vào ngày
21-10-1805. Mặc dù Đô Đốc Nelson bị tử thương trong
trận hải chiến này nhưng hai hạm đội Pháp và Tây Ban
Nha đã bị hoàn toàn phá hủy. Chiến thắng của Hải
Quân Anh có tính quyết định, đã chấm dứt mọi hy vọng
xâm lăng các hải đảo Anh Cát Lợi của Napoléon và cho
phép người Anh làm chủ được mặt biển.
Trước khi trận Trafalgar xẩy ra, ba nước Anh, Áo và
Nga đã lập nên Liên Minh thứ ba chống lại nước Pháp,
do sự vận động của Thủ Tướng William Pitt trong khi
đó, Napoléon muốn vẽ lại bản đồ của nước Đức bằng
cách dẹp bỏ hàng trăm thành phố và các vương quốc
nhỏ để tạo ra các xứ miền nam, đặt dưới quyền cai
trị của nước Pháp.
Ngày 24-7-1805, Napoléon Bonaparte đã ra lệnh chuyển
Đại Quân từ Boulogne qua miền sông Danube và trong
trận đánh tại Ulm vào tháng 10 năm đó, Napoléon đã
bắt được 30,000 tù binh người Áo. Hầu Tước người Áo
Ferdinand chạy thoát với một toán kỵ binh nhỏ. Ngày
13-11, Napoléon tiến vào Vienna. Ngày 02 tháng 12
năm 1805, Napoléon Bonaparte đã kín đáo và với tốc
độ chuyển quân thần tốc, đem lực lượng tăng cường
đánh bất ngờ vào đạo quân liên hợp Áo-Nga tại làng
Austerlitz, gây nên thiệt hại cho địch quân là
27,000 người, so với 9,000 người tổn thất của Pháp.
Sau trận đánh lừng danh này, trên lục địa châu Âu đã
lan truyền lời nói của Napoléon : “Ta đã đánh bại
đạo quân Nga và Áo do hai Hoàng Đế chỉ huy”.
Trong vòng một tháng, Napoléon Bonaparte đã ép buộc
Hoàng Đế Hapsburg là Francis I phải ký Hòa Ước
Pressburg theo đó nước Áo chấp nhận mất hết ảnh
hưởng tại nước Ý và nhường 2 miền Venetia và
Dalmatia cho Napoléon, cũng như bằng lòng để người
Pháp cai quản các xứ Bavaria, Wurttemberg và Baden.
Sau đó, ngai vàng của dòng họ Bourbons tại vương
quốc Naples đã được dành cho người anh của Napoléon
là Joseph. Vào tháng 7 năm 1806, Liên Bang Sông
Rhine được thành lập, bao gồm tất cả miền tây nước
Đức và được đặt dưới quyền bảo hộ của người Pháp.
Tháng 9 năm 1806, nước Phổ gây chiến với nước Pháp
và vào ngày 14 tháng 10 năm đó, các đạo quân Phổ đã
bị Napoléon đánh bại tại Jena và Auerstadt. Năm
1807, khi tiến quân vào thành phố Warsaw, Napoléon
đã gặp bà Bá Tước Marie Walewska, một người Ba Lan
yêu nước, muốn kết hôn với Napoléon để nhờ đó quốc
gia Ba Lan được tái lập. Napoléon đã có với bà
Walewska một đứa con.
Như vậy trên lục địa châu Âu chỉ còn một quốc gia
chống đối Napoléon là nước Nga. Tại Eylau, quân đội
Nga đã cầm cự được với đạo quân của Napoléon vào
tháng 2-1807 nhưng rồi vào tháng 6 năm đó, đã phải
bỏ chạy trước quân đội Pháp sau trận đánh Friedland.
Sau các lần liên minh quân sự với nước Anh, Sa Hoàng
Alexander I của nước Nga đã cảm thấy mệt mỏi và chán
nản, nên đã hẹn gặp Napoléon trên một cái bè thả nổi
trên dòng sông Niemen tại Tilsit, một nơi biên giới
giữa hai xứ Nga và Đông Phổ. Hai hoàng đế Pháp và
Nga đã ký một thỏa ước chia đôi châu Âu và tạo nên
lãnh địa hầu tước Warsaw (Grand Duchy of Warsaw) từ
các tỉnh Ba Lan được tách ra khỏi nước Phổ và lãnh
địa này được Napoléon giao cho một nước đồng minh
của Pháp cai quản, đó là Vua xứ Saxony. Lãnh thổ của
nước Phổ nằm ở phía tây dòng sông Elbe thuộc quyền
Napoléon và Napoléon có quyền đóng quân trên đất Phổ
cũng như giới hạn quân số của nước này là 42,000
người.
Napoléon Bonaparte đã đoạt được hàng loạt chiến
thắng quân sự nhờ thiên tài cầm quân của ông, nhờ
các tướng lãnh tài giỏi và tinh thần chiến đấu anh
dũng của quân sĩ dưới quyền, và cũng nhờ các lỗi
lầm, sơ sót của địch quân. Từ nay, quân đội Pháp là
lực lượng đáng sợ nhất và tiến bộ nhất của châu Âu.
Đạo quân này có những lính mới do chế độ quân dịch,
với quân số mới vào khoảng 85,000 người mỗi năm và
các tân binh được bổ sung vào các đoàn quân tinh
nhuệ cũ để đáp ứng nhu cầu chiến trường. Các sĩ quan
Pháp dưới thời Napoléon được thăng cấp trên căn bản
khả năng hơn là thâm niên hay thế lực, và các cấp
chỉ huy này quan tâm tới tinh thần chiến đấu của
binh sĩ hơn là lo áp dụng kỷ luật nghiêm ngặt. Về
phần quyết định trận đánh, Napoléon Bonaparte chỉ ra
lệnh tấn công khi lực lượng Pháp mạnh hơn hoặc bằng
với lực lượng địch, và vào thời điểm tấn công thì
dùng yếu tố bất ngờ như vũ bão, như trong trận
Austerlitz.
Vào đầu thế kỷ 19, quân đội Pháp có vẻ như vô địch
nhưng thật ra, vẫn có các khuyết điểm. Dịch vụ y tế
tại mặt trận rất yếu kém khiến cho nhiều người lính
bị chết vì bệnh dịch, vì các vết thương không được
chăm sóc cẩn thận. Lương bổng trả cho người lính còn
thấp và không đều đặn, việc tiếp liệu thất thường,
người và ngựa phải sống nhờ trên các miền đất bị
chiếm đóng để tiết kiệm các chi phí và không lệ
thuộc nhiều vào các đoàn xe tiếp tế.
Từ nay, toàn thể châu Âu được coi như chia ra làm ba
phần: thứ nhất là Đế Quốc Pháp, bao gồm nước Pháp và
các miền đất sát nhập kể từ năm 1789, thứ hai là các
xứ vệ tinh của Pháp, cai trị bởi những người họ hàng
của Napoléon, và các quốc gia bị bắt buộc theo Pháp
do thua trận, gồm các nước Áo, Phổ và Nga, và thứ ba
là ba nước Anh, Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ, nằm bên
ngoài hệ thống cai trị của Napoléon. Vào năm 1810,
Bá Tước Bernadotte là một thống chế của Napoléon, đã
được người dân Thụy Điển mời làm vua của xứ họ, thay
thế cho vị vua không có con nối dõi ngai vàng. Và về
sau, chính Tướng Bernadotte đã chủ trương các chính
sách của Thụy Điển chống lại Napoléon.
Tại miền trung của châu Âu, Napoléon đã ban ra các
đạo luật giải tán một số xứ chư hầu Đức, rồi tới năm
1806, Đế Quốc Thần Thánh La Mã (the Holy Roman
Empire) bị giải thể. Vị hoàng đế cuối cùng của Đế
Quốc Thần Thánh La Mã là Francis I, thuộc dòng họ
Hapsburg, nay trở thành hoàng đế của nước Áo.
Napoléon đã tạo ra Liên Bang Sông Rhine (the
Confederation of the Rhine) bao gồm các miền đất bên
ngoài nước Phổ và nước Áo.
Đế quốc Pháp của Napoléon Bonaparte đã mỗi năm một
mở rộng và Napoléon đã không do dự khi chỉ định các
người trong dòng họ lên ngai vàng tại các xứ sở rải
rác của châu Âu. Năm 1806, người em trai Louis
Napoléon lên làm Vua xứ Hòa Lan. Anh Joseph
Napoléon, sau hai năm làm Vua vương quốc Naples, nay
được chỉ định làm Vua xứ Tây Ban Nha từ năm 1808.
Người em Jerome làm Vua xứ Westphalie mới được thành
lập năm 1807, còn các người em khác cũng không bị bỏ
quên. Em gái Caroline, người kết hôn với Thống Chế
Joachim Murat, đã thay thế anh Joseph, lên ngai vàng
tại Naples vào năm 1808, còn một người em gái khác
là Elisa, có chồng là ông hoàng Lucca, được phong Nữ
Bá Tước (grand duchess) miền Tuscany năm 1809. Ngoài
ra, người con riêng của bà Beauharnais là Eugène de
Beauharnais được giữ chức Phó Vương của vương quốc Ý
Đại Lợi.
Napoléon Bonaparte cũng nghĩ tới người con nối dõi.
Bà Josephine bị ly dị sau cuộc hôn nhân 15 năm không
con và vào năm 1810, Napoléon đã kết hôn với công
chúa Marie Louise, con gái của Vua Francis I, thuộc
dòng họ Hapsburg. Bà Marie Louise này đã có với
Napoléon một đứa con trai, được gọi là “Vua La Mã”
(the king of Rome) nhưng về sau, đứa bé này đã không
hề làm vua xứ sở nào cả.
7- Đế Quốc Pháp sụp đổ.
Chủ nghĩa đế quốc của Napoléon đã thể hiện rõ ràng
qua “Hệ Thống Lục Địa” (the Continental System). Đây
là chương trình muốn điều hành nền kinh tế của toàn
thể châu Âu bằng các mục tiêu chính trị, kinh tế và
quân sự, và qua một chính sách làm sao xây dựng nền
xuất cảng của nước Pháp và làm tê liệt nền kinh tế
của nước Anh. Dưới ảnh hưởng của Pháp là các nước
Đan Mạch, Na Uy, Phổ và đế quốc Áo. 42 triệu người
dân đã nằm dưới quyền hành của Napoléon Bonaparte.
Bên ngoài ảnh hưởng của Hoàng Đế Napoléon là các
nước Anh, Nga, Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ. Để triệt
tiêu nước Anh, Napoléon đã ký đạo luật Berlin năm
1806, cấm đoán mọi mậu dịch với các hải đảo Anh và
hạ lệnh bắt giữ mọi tầu biển Anh cũng như tịch thu
các tài sản, hàng hóa của người Anh. Nước Anh đã
phản ứng lại bằng cách bắt buộc các tầu biển trung
lập phải trả thuế tại các hải cảng Anh trước khi chở
hàng qua nước Pháp.
Vào tháng 12 năm 1807, đạo luật Milan của Napoléon
lại ra lệnh bắt giữ mọi tầu thuyền trung lập tuân
theo chính sách của nước Anh và như vậy, các nước
trung lập bị đẩy vào thế kẹt ở giữa. Kết quả của hai
đạo luật kể trên của Napoléon đã tạo nên một loại
phong tỏa lục địa châu Âu. Chính sách “nước Pháp là
ưu tiên một” (France first) đã gặp thất bại nặng nề.
Chỉ một số kỹ nghệ của nước Pháp hưởng lợi qua “Hệ
Thống Lục Địa”, như việc cấm nhập cảng đường ăn từ
các quần đảo Tây Ấn, đã làm phát triển củ cải đường
(sugar beet). Ngược lại, nền ngoại thương của nước
Pháp với các quốc gia bên ngoài bị suy sụp. Thành
phố Bordeaux và các hải cảng nằm trên Địa Trung Hải
trở nên tiêu điều, các nguyên liệu bị khan hiếm
chẳng hạn như bông gòn. Nạn thất nghiệp, phá sản và
buôn lậu gia tăng, nhất là tại xứ Hòa Lan, giá trị
xuất cảng ra các thị trường hải ngoại của nước Pháp
bị giảm đi hơn một phần ba giữa các năm 1805 và
1813.
Mặt khác, Hệ Thống Lục Địa đã không làm sụp đổ nước
Anh dù cho người dân Anh đã phải chịu đựng nhiều
thiếu thốn: thực phẩm nhập cảng giảm, vật giá gia
tăng, tiền tệ cung cấp không đủ cho sức cầu. Nhưng
nước Anh đã vượt qua được các khó khăn nhờ các cải
cách kinh tế, nhờ sự vượt trội về Hải Quân và Hàng
Hải Thương Thuyền, nhờ các thị trường mới, phong phú
hơn được mở ra tại châu Mỹ, tại đế quốc Ottoman và
tại châu Á, và cũng nhờ ngành buôn lậu vào lục địa
châu Âu. Nước Pháp của Napoléon vào thời kỳ này đã
thiếu đi một lực lượng hải quân đủ mạnh để bắt giữ
các kẻ buôn lậu, thiếu thốn các đội ngũ nhân viên
quan thuế trong sạch điều hành các hải cảng và trong
khi đó, quân đội Pháp lại rất cần một số mặt hàng
sản xuất từ các cơ xưởng của nước Anh, chẳng hạn các
quân trang bằng da và bằng vải.
Hệ Thống Lục Địa của Napoléon đã tạo ra các hậu quả
xấu về chính trị, kinh tế và quân sự khi vào năm
1807, Hoàng Đế Napoléon áp đặt các chính sách của
mình lên nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Sau thời
Cách Mạng Pháp, các tư tưởng dân chủ của người Pháp,
các tinh thần quốc gia của các xứ tại châu Âu đã
khiến cho người dân châu Âu dần dần nổi lên chống
lại sự đô hộ của Napoléon.
Vào năm 1808, Napoléon đã lật đổ dòng họ Bourbons
của Tây Ban Nha và thay vào bằng người anh Joseph
làm vua xứ này. Việc áp đặt chế độ quân chủ xa lạ và
Hệ Thống Lục Địa lên nước Tây Ban Nha, việc hủy bỏ
các đặc quyền của giới quý tộc và tu sĩ địa phương,
đã là các vi phạm vào các phong tục, tập quán và
niềm hãnh diện của người dân Tây Ban Nha, vì vậy một
cuộc nổi loạn đã xẩy ra vào ngày 2-5-1808 tại
Madrid.
Cuộc nổi dậy Madrid của người dân Tây Ban Nha đã bị
dập tắt một cách tàn nhẫn nhưng từ nay cũng bắt đầu
cuộc Chiến Tranh Bán Đảo (the Peninsular War), gọi
tên theo bán đảo Iberian. Các quân du kích Tây Ban
Nha đã phục kích quân đội Pháp, dùng thuốc độc bỏ vô
các giếng nước, cũng như các cách đánh lén khác.
Quân du kích Tây Ban Nha còn được trợ giúp bởi quân
đội Anh, lãnh đạo do Sir Arthur Wellesley
(1769-1852), người mà sau này là Hầu Tước
Wellington. Napoléon đã đổ hơn 300,000 quân vào
chiến dịch Tây Ban Nha nhưng tới năm 1812, khi quân
Pháp xâm lăng nước Nga thì lực lượng du kích Tây Ban
Nha đã chiếm ưu thế. Năm 1813, Vua Joseph Napoléon
phải rút lui vĩnh viễn khỏi Madrid và Hầu Tước
Wellington đã giải phóng được nước Tây Ban Nha rồi
đưa quân tiến sang miền nam nước Pháp.
Tại phía đông của nước Pháp, tinh thần quốc gia của
người dân nước Phổ đã phát triển. Hai anh em Jacob
(1785-1863) và Wilhelm Grimm (1786-1859) đã viết ra
các chuyện thần tiên (fairy tales) trong khoảng các
năm 1812-15, chứng tỏ được tính ưu việt của ngôn ngữ
Đức, đồng thời nhà triết học J.G. Fichte (1762-1814)
cùng các nhà tiên tri về Quốc Gia Đức, đã bắt đầu
đặt nền móng cho các lý thuyết về Quốc Gia Đức Mới.
Trong “Các bài nói với Dân Tộc Đức” (Addresses to
the German People, 1807-08), Fichte đã cho rằng
Tiếng Đức là nguồn của ngôn ngữ (Ursprache) và người
dân Đức thuộc về một quốc gia cổ nhất và đạo đức
nhất (Urvolk). Như vậy phản ứng chống đối sự đàn áp
của người Pháp bắt đầu từ các nhà trí thức Đức và từ
tầng lớp ưu tú. Sau đó, các tướng lãnh và các chính
khách có khả năng đã nắm quyền cai trị nước Phổ, là
tiền thân của nước Đức sau này. Tại nước Phổ, Tướng
Gerhard von Scharnhorst (1755-1813) đã đứng đầu các
sĩ quan cao cấp, tổ chức lại quân đội cho có hiệu
quả hơn và theo các nguyên tắc dân chủ hơn. Giới hạn
42,000 quân do Napoléon ấn định cho xứ sở Phổ đã
được các sĩ quan Phổ tránh né bằng cách huấn luyện
và tổ chức các đoàn tân binh nhờ đó vào năm 1813,
nước Phổ đã có hơn 150,000 binh lính sẵn sàng chiến
đấu.
Đồng thời với các cải cách quân đội, việc tổ chức
hành chính và xã hội cũng được thực hiện tại nước
Phổ do các ý kiến của Bá Tước Heindrich Stein
(1757-1831), một nhà quý tộc khai sáng thuộc miền
Rhineland, nhờ đó các tỉnh và thành phố được thêm
quyền tự trị, các người Do Thái có thêm nhân quyền,
chế độ nông nô bị hủy bỏ do đạo luật tháng 10 năm
1807. Tinh thần quốc gia Đức đã trỗi dậy.
Sau năm 1807, khi Sa Hoàng Alexander gặp gỡ Napoléon
tại Tilsit, các hành động của người Pháp đã khiến
cho Hoàng Đế Nga nghi ngờ sự thành thật của Napoléon
Bonaparte. Tới năm 1809, khi quân đội Pháp chiếm
đóng nước Áo thì miền Balkan thuộc Nga bị đe dọa và
việc cắt xứ Galicia của nước Áo sát nhập vào lãnh
địa hầu tước Warsaw đã đe dọa phần đất Ba Lan thuộc
Nga. Ngoài ra, còn có áp lực của người Pháp muốn
người Nga tuân theo Hệ Thống Lục Địa. Cuộc gặp gỡ
giữa Sa Hoàng và Napoléon tại thành phố Đức Erfurt
vào năm 1808 đã không mang lại sự đồng ý giữa 2 nước
Pháp và Nga, rồi xứ Oldenburg bị sát nhập vào miền
ảnh hưởng thuộc Pháp, cai trị do người em rể của
Napoléon làm hầu tước. Tất cả các sự kiện này đã gây
nên cuộc xâm lăng nước Nga vào năm 1812 của
Napoléon.
Mùa xuân năm 1812, Napoléon Bonaparte đưa quân vào
xứ Ba Lan, đe dọa biên giới của Sa Hoàng Alexander
rồi sau khi các thỏa hiệp không thành, Đại Quân của
Napoléon vào khoảng 453,000 người, đã vượt qua dòng
sông Niemen, tiến sang đất Nga. Quân đội Nga đã rút
lui, áp dụng chiến lược "tiêu thổ kháng chiến". Mùa
đông trên lãnh thổ Nga rất khắc nghiệt. Quân đội Nga
càng rút lui, càng khiến cho quân đội Pháp sa lầy
vào xứ sở tuyết trắng mênh mông với các điều kiện
sinh sống mà Napoléon chưa từng có kinh nghiệm. Hệ
thống tiếp liệu của người Pháp ở quá xa, làng mạc
Nga đã bị đốt sạch trước khi quân Pháp tiến tới
khiến cho người và ngựa của lực lượng Pháp không thể
tìm ra được các thực phẩm thông thường. Một cận vệ
của Napoléon đã phải ghi lại rằng : “à không tìm ra
được một cư dân nào, không bắt được một tù binh nào.
Chúng tôi đang ở trung tâm của xứ Nga không người cư
ngụ và chúng tôi giống như một con tầu không có địa
bàn, ở giữa một đại dương rộng lớn, không biết điều
gì sẽ xẩy ra chung quanh chúng tôi".
Vào ngày 7 tháng 9 năm 1812, Tư Lệnh lực lượng Nga
là Tướng Mikhail I. Kutuzov (1745-1813) đã dàn trận,
đánh quân Pháp tại Borodino. Trận chiến rất đẫm máu,
tàn ác và không phân thắng bại. Napoléon muốn kết
thúc cuộc chiến thật nhanh mà không được. Một tuần
lễ sau, Napoléon đã tiến vào thành phố Moscow, nơi
mà người Nga rút lui sau khi đã đốt cháy mọi cơ sở.
Sa Hoàng Alexander nhất định không chịu thương
thuyết. Việc rút quân Pháp bị coi là bắt buộc. Mùa
đông đã tới sớm trên đất Nga. Lực lượng Pháp bị
thiệt hại nặng nề vì thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu
phương tiện y tế, luôn luôn bị quân du kích Nga quấy
phá và bị tấn công bởi “Đại Tướng Mùa Đông” (General
Winter). Sau cuộc rút quân vượt qua sông Berezina
vào tháng 11, lực lượng chính của Napoléon chỉ còn
ít hơn 20,000 lính đói ăn và rách rưới tả tơi. Đa số
quân Pháp đã chết vì đói, vì lạnh, vì bệnh tật, một
số lớn bị bắt làm tù binh. Vào lúc này, các lãnh tụ
Nga cũng e ngại Napoléon sẽ giải phóng các nông nô
để họ nổi lên chống lại các địa chủ, nhưng những
người nông dân bần cùng này đã tham gia vào các đội
quân du kích, đánh phá quân đội Pháp. Khi lực lượng
Pháp đang rút lui thảm bại, Tư Lệnh Nga là Tướng
Kutuzov muốn để các nước đồng minh của Nga tiếp tục
đánh quân Pháp nhưng Sa Hoàng đã ra lệnh cho đạo
quân Nga truy kích quân Pháp qua cả biên giới của
nước Nga.
Sự thất trận của Napoléon Bonaparte trên đất nước
Nga đã làm phấn khởi các dân tộc của châu Âu. Tại
nước Đức, đã có các cuộc biểu tình chống Pháp. Các
lính quân dịch Đức bị bắt buộc phục vụ trong Đại
Quân Pháp đã đào ngũ và tham gia vào lực lượng quân
sự chống đối. Người Áo cũng rút về quân đội của họ
và có thái độ thù nghịch với người Pháp còn tại nước
Ý, người dân đã vùng lên phản kháng. Tại Paris,
trong cuộc đảo chính vào ngày 23-10-1812, đã có công
bố rằng Napoléon bị chết trận tại nước Nga. Tất cả
các yếu tố này đã khiến cho Napoléon Bonaparte vội
vã rút lui trở về Pháp trước cả Đại Quân. Trong cuộc
xâm lăng nước Nga, gần 500,000 binh lính của
Napoléon đã bị chết, hoặc đào ngũ hay bị bắt làm tù
binh.
Napoléon Bonaparte trở về tới Paris vào ngày 18
tháng 12 và đã công nhận cuộc thảm bại trong bản
thông cáo số 29 (the 29th Bulletin). Dù vậy, dân
chúng Pháp vẫn còn ủng hộ Napoléon. Chế độ độc tài
một lần nữa lại được củng cố và Napoléon tổ chức lại
các đội quân mới.
Từ năm 1813, người dân của các xứ sở khác nhau của
châu Âu đã nổi lên chống lại người Pháp vì nền Tự Do
của họ, giống như người Pháp đã tranh đấu vì Tự Do
trong các năm 1792 và 1793, và vào lúc này, niềm
phấn khởi của người dân Pháp khi trước đã không còn.
Lý tưởng chinh phục của Hoàng Đế Napoléon không còn
được dân chúng Pháp hậu thuẫn.
Sau khi rút lui khỏi nước Nga, Napoléon Bonaparte
lại phải đương đầu với liên minh quân sự mới gồm các
nước Anh, Nga, Áo, Phổ và Thụy Điển. Tháng 4-1812,
Napoléon với các đạo quân mới, đã đánh thắng quân
Nga và quân Phổ tại các trận Lutzen, Bautzen và
Dresden nhưng lực lượng của Liên Quân đông hơn. Đại
Quân của Napoléon rất cần được tăng cường nhưng
không thể thực hiện nổi việc bổ sung quân số. Do sự
trung gian của nước Áo, một hội nghị các nước liên
minh chống Pháp được tổ chức tại Prague và giải pháp
do Bộ Trưởng Ngoại Giao Metternich đề nghị là Đế
Quốc Pháp phải rút lui về các biên giới thiên nhiên
cũ, lãnh địa hầu tước Warsaw cùng Liên Bang Sông
Rhine phải bị giải tán và nước Phổ lấy lại được các
biên giới của năm 1805. Trong hoàn cảnh này,
Napoléon đã phạm phải một sai lầm, là đã do dự quá
lâu. Hội nghị kể trên đã bế mạc vào ngày 10-8 trước
khi bản văn trả lời của Napoléon tới nơi. Nước Áo
bèn tuyên chiến.
Trong cuộc chiến tranh chống lại Napoléon, nước Anh
là quốc gia đầu tiên đã đánh thắng người Pháp tại
Trafalgar và trên các mặt trận kinh tế của Hệ Thống
Lục Địa. Sau đó là các thất bại của Napoléon tại
nước Tây Ban Nha và tại nước Nga. Quân đội Pháp càng
ngày càng suy kém đi. Các người lính quân dịch Đức
đã dần dần đào ngũ, bỏ chạy qua phía liên minh chống
Pháp. Napoléon cố gắng xây dựng lại một đạo quân
mới, nhưng đã không thể thay thế các trang bị thiệt
hại trên đất Nga. Cuộc sụp đổ nặng nề nhất của
Napoléon Bonaparte là “Trận chiến Leipzig” hay “Trận
chiến của các Quốc Gia” (the Battle of the Nations)
diễn ra vào các ngày 16 tới 19 tháng 10 năm 1813,
tại đó Đại Quân (Grand Armée) Pháp đã bị đập nát tan
tành. Các đoàn quân Pháp tại Tây Ban Nha đã phải rút
lui sau các thất trận vào tháng 6, rồi quân đội Anh
tấn công quân Pháp tại phía bắc của miền Pyrenées.
Tại nước Ý, quân Áo đã vượt qua dòng sông Adige,
chiếm Romagna và Thống Chế Murat, vị tướng duy nhất
phản bội Hoàng Đế Napoléon, đã ký giao ước với triều
đình Vienna. Các người Bỉ và Hòa Lan cũng nổi lên
chống lại người Pháp.
Vào tháng 1 năm 1814, nước Pháp bị tấn công tại tất
cả các biên giới. Các nước liên minh đã khôn khéo
tuyên bố rằng họ chỉ chống lại cá nhân ông Napoléon.
Tại chính nước Pháp, Quốc Hội Lập Pháp và Thượng
Viện Pháp, trước kia dễ dàng vâng lời Napoléon, thì
nay lại đứng lên đòi hỏi hòa bình và các tự do chính
trị, dân sự.
Qua Hiệp Ước Chaumont ký vào tháng 3-1814, các nước
Áo, Anh, Nga và Phổ đã đồng ý không thương thuyết
riêng lẻ với nước Pháp trong 20 năm, cho tới khi nào
Napoléon bị lật đổ. Khi thua trận Leipzig, Napoléon
đã phải rút về và liên quân đã tiến vào thành phố
Paris vào ngày 30 tháng 3. Các người có chức quyền
của thành phố Paris vào lúc này không còn e sợ Hoàng
Đế Napoléon nữa, họ tìm cách bắt liên lạc với liên
minh quân sự. Là nhà lãnh đạo của chính phủ lâm
thời, ông Talleyrand đã đề nghị việc truất phế Hoàng
Đế Napoléon và rồi không tham khảo ý kiến của dân
chúng Pháp, ông ta đã thương thuyết với Louis 18,
người em của vị Vua Pháp bị hành quyết là Louis 16.
Khi Napoléon rút quân về tới Fontainebleau thì được
tin thành phố Paris đã đầu hàng lực lượng Liên Minh.
Được khuyên nhủ việc chống trả sẽ vô ích, Hoàng Đế
Napoléon cuối cùng đồng ý thoái vị vào ngày
11-4-1814.
Do Hiệp Ước Fontainebleau, các nước liên minh đồng ý
giao cho Napoléon cai quản một tiểu vương quốc là
hòn đảo Elba, nằm tại phía tây bắc của bờ biển Ý Đại
Lợi, với lợi tức hàng năm là 2 triệu quan do nước
Pháp cung cấp và một đội quân bảo vệ gồm 400 người
tình nguyện, và ông Napoléon vẫn giữ được danh hiệu
Hoàng Đế. Sau lần dự mưu tự vẫn bằng độc dược không
thành công, Napoléon Bonaparte ngỏ lời từ biệt “Toán
quân cận vệ cũ” (the Old Guard), qua sống tại đảo
Elba. Vợ và con trai của ông được gửi về nuôi bên
người cha vợ, là Hoàng Đế Francis I của nước Áo.
Napoléon không bao giờ được gặp lại hai người thân
này.
Sau cuộc chiến thắng Napoléon, các chính khách của
Liên Minh đã hội họp tại Vienna để phác thảo ra kế
hoạch hòa bình. Vua Louis 18, thuộc dòng họ Bourbon,
lên ngai vàng của nước Pháp và đã ban ra đạo dụ năm
1814, thiết lập nên chế độ quân chủ lập hiến. Đã xẩy
ra cuộc "khủng bố trắng" của phe bảo hoàng đối với
các người Cách Mạng Pháp cũ.
Việc phục hưng dòng họ Bourbon đã sớm bị dân chúng
Pháp chỉ trích. Mặc dù vào năm 1814, người dân Pháp
chán nản trước Hoàng Đế Napoléon nhưng họ cũng không
mong muốn sự trở về của phe bảo hoàng, vì Vua Louis
18 đã lên ngai vàng do sự trợ giúp của các người
ngoại quốc. Người dân Pháp vào lúc này vẫn còn lưu
luyến các thành quả của Cách Mạng. Bắt đầu có các âm
mưu chống đối chính quyền hoàng gia mới.
Tại đảo Elba, Napoléon vẫn theo dõi các tiến triển
trên lục địa. Vì vào lúc này, các nhà chính trị tại
Vienna đang trù liệu về số phận của châu Âu và họ
coi đảo Elba quá gần với nước Pháp và nước Ý, nên họ
muốn đầy Napoléon tới một hòn đảo thật xa trong Đại
Tây Dương. Napoléon cũng phản đối nước Áo đã ngăn
trở không cho vợ con theo sống với ông trên đảo.
Thực ra, bà Marie Louise lúc này đã có một người
tình nên không có ý định đi theo chồng, và thêm vào
đó, chính phủ Pháp cũng từ chối trợ cấp tài chính
cho Napoléon, khiến cho ông lâm vào hoàn cảnh túng
thiếu. Tất cả những yếu tố kể trên đã đưa đẩy
Napoléon phải hành động.
Vào tháng 2 năm 1815, Napoléon Bonaparte cùng với
1,100 người theo đi đầy trước kia, đã xuống tầu, rời
đảo Elba, tìm đường qua đất Pháp. Ngày 1 tháng 3 năm
đó, họ đổ bộ tại Cannes và rồi tiến về thành phố
Paris. Khi vượt qua rặng núi Alps, Napoléon đã được
các nông dân cộng hòa vây quanh tán thưởng. Một đạo
quân được phái đi từ Paris do Thống Chế Michel Ney
chỉ huy, để bắt Napoléon nhưng khi những người này
gặp lại vị lãnh tụ cũ của họ, họ đã hoan hô Napoléon
Bonaparte như là vị Hoàng Đế và tham gia vào đoàn
quân mới. Trước tình thế mới, Vua Louis 18 bỏ chạy.
Ngày 20-3, Napoléon Bonaparte tiến vào thành phố
Paris và được đám đông dân chúng khiêng lên, đưa vào
Điện Tulleries. Ngay sau đó, Napoléon đã công bố một
hiến pháp mới có tính giới hạn các quyền hành của
ông, và ông cũng hứa với các nước liên minh rằng ông
sẽ không gây chiến. Nhưng các nhà lãnh đạo của các
nước liên minh vẫn coi Napoléon là “kẻ thù và kẻ
quấy phá nền hòa bình của thế giới”. Vì vậy, cả hai
phe lại chuẩn bị chiến tranh.
Để chống lại các đạo quân liên minh tập trung tại
biên giới nước Pháp, Napoléon đưa 125,000 quân sang
nước Bỉ. Ngày 16-6, Napoléon đánh bại Thống Chế
Gebhard von Blucher của nước Phổ tại Ligny, gần
Fleurus. Ngày 18-6 tại Waterloo, Napoléon tấn công
đạo quân Anh dưới quyền Tướng Wellington, là kẻ
chiến thắng tại cuộc Chiến Tranh Bán Đảo. Trận chiến
tàn sát đã diễn ra. Hàng ngàn kỵ binh Pháp đã xông
trận và Napoléon sắp sửa chiến thắng thì đạo quân
Phổ của Thống Chế Blucher tiến đến, tăng cường cho
đạo quân Anh, và mặc dù đạo quân cận vệ cũ (the Old
Guard) đã chiến đấu rất kiên cường, Napoléon đã bị
thua trận vì bị địch quân quá đông áp đảo. Napoléon
bị thiệt hại 25,000 lính chết và bị thương, 9,000
lính bị bắt. Tổn thất của Tướng Wellington là 15,000
quân và của Thống Chế Blucher vào khoảng 8,000
người. Waterloo trở nên một trong các trận đánh danh
tiếng nhất trong Lịch Sử.
Napoléon Bonaparte bỏ chạy về Paris và phải thoái vị
lần thứ hai vào ngày 22 tháng 6 năm 1815. Thời gian
Napoléon trở về Paris từ đảo Elba tới khi ông thoái
vị lần này, được gọi là “Giai đoạn 100 ngày”. Ngày 3
tháng 7, Napoléon đã tới Rochefort, định tìm đường
trốn qua châu Mỹ nhưng con tầu chiến của nước Anh
tên là Bellerophon, do Đại Tá Frederick Lewis
Maitland chỉ huy, đã ngăn chặn, không cho con tầu
Pháp chở Napoléon rời khỏi bến cảng. Napoléon đành
phải kêu gọi sự bảo vệ an ninh của người Anh. Các
nước liên minh lần này cùng đồng ý về một điểm: ông
Napoléon Bonaparte sẽ không được trở về đảo Elba nữa
mà bị đưa tới một hòn đảo rất xa. Sau đó chính quyền
Anh công bố rằng hòn đảo Saint Helena tại phía nam
Đại Tây Dương đã được chọn làm nơi cư ngụ cho cựu
hoàng.
Ngày 15 tháng 10 năm 1815, Napoléon cùng với một số
người tình nguyện theo đi đày, đã bước lên hòn đảo
St. Helena, gồm có: Tướng Henri-Gratien Bertrand,
nguyên thống chế bản doanh với vợ, Bá Tước Charles
de Montholon, tùy viên với vợ, Tướng Gaspard
Gourgaud, ông Emmanuel Las Cases, cựu nhân viên cao
cấp hoàng gia, và một số tùy tùng cũ. Sau một thời
gian ngắn cư ngụ tại ngôi nhà của một thương gia Anh
giàu có, Napoléon Bonaparte dọn tới nhà của vị toàn
quyền hòn đảo xây dựng tại Longwood.
8- Ngày tàn của Hoàng Đế
Napoléon.
Napoléon Bonaparte trở về với đời sống buồn tẻ hàng
ngày. Mỗi ngày ông thức dậy trễ vào khoảng 10 giờ
sáng và ít khi bước chân ra khỏi nhà. Ông được tự do
đi lại trên đảo nhưng với điều kiện phải có một sĩ
quan người Anh đi kèm. Ông đã không chịu chấp nhận
điều kiện này mà ở trong nhà đọc sách và nói chuyện
với các người thân cận cũ. Người thư ký của ông là
Las Cases đã ghi chép lại các lời tường thuật của vị
cựu Hoàng Đế Pháp để về sau, biên soạn thành sách.
Buổi tối từ 7 tới 8 giờ, Napoléon dùng cơm chiều,
sau đó dành thời giờ chơi bài hay đọc sách. Ông ưa
thích các tác phẩm cổ điển. Ông cũng học tiếng Anh
và bắt đầu đọc được báo chí Anh nhưng ông cũng có
nhiều sách Pháp từ lục địa gửi qua, và ông đã đọc
chăm chú các cuốn sách này cùng ghi thêm các lời
nhận xét.
Saint Helena là một hòn đảo khí hậu tốt nhưng một
nhân vật đã từng dọc ngang chinh phục khắp châu Âu
trong 20 năm trường làm sao chịu đựng được cảnh cô
quạnh, giam hãm trên một hòn đảo hẻo lánh. Napoléon
Bonaparte lại không được tin tức gì về vợ và con,
biết đâu rằng Hoàng Hậu Marie Louise đã lập gia đình
một cách lén lút với một sĩ quan người Áo tên là
Graf Adam von Neipperg mà không đợi tới lúc ông
chết. Người con trai của ông, sinh ngày 20-3-1811 có
tên là Francois Charles Joseph Bonaparte, lúc sinh
ra đã có danh hiệu “Vua La Mã” (King of Rome), thì
nay trưởng thành và sinh sống như một tù nhân hoàng
gia dưới sự canh chừng của ông ngoại là Hoàng Đế Áo
Francis I. Thời đó, các chính khách của phe liên
minh vẫn e ngại các người ủng hộ Napoléon sẽ lợi
dụng danh nghĩa của cậu con trai này để mưu cầu
quyền lực tại nước Pháp nên Francois Bonaparte được
đổi tên thành Hầu Tước Reichtadt.
Từ tháng 4 năm 1816, Sir Hudson Lowe tới đảo St.
Helena làm toàn quyền, đã khiến cho đời sống của
Napoléon khó chịu thêm. Napoléon trước kia đã không
ưa gì ông Lowe, là người đã từng chỉ huy toán quân
xung kích trên đảo Corsica và đây là nhóm lính tình
nguyện phần lớn căm thù gia đình Bonaparte. Sir Lowe
cũng hiềm khích với ông Las Cases, người tin cẩn của
Napoléon và đã tìm cách bắt bớ ông này rồi trục xuất
khỏi đảo. Vì vậy, liên lạc giữa Napoléon và vị toàn
quyền đã trở nên căng thẳng.
Tới cuối năm 1817, đã có dấu hiệu bệnh tật nơi vị
cựu Hoàng Đế, một phần cũng vì ông thiếu vận động.
Napoléon có triệu chứng bị ung thư bao tử. Vị bác sĩ
người Ái Nhĩ Lan là ông Barry O' Meara đã từng
khuyên Napoléon thay đổi lối sống, nay bị thuyên
chuyển đi nơi khác. Thay thế là một bác sĩ tầm
thường, gốc thuộc đảo Corsica với tên là Francesco
Antommarchi, đã cho thuốc cựu Hoàng Đế nhưng không
làm sao điều trị được thứ bệnh nan y vào thời đại
đó.
Đầu năm 1821, căn bệnh của Napoléon trở nên trầm
trọng thêm. Từ tháng 3, vị cựu Hoàng Đế bị nằm liệt
giường. Tháng 4, Napoléon Bonaparte đã đọc lời di
chúc cuối cùng, gồm có câu : “Tôi ước muốn nắm xương
tàn của tôi nằm bên bờ sông Seine, ở giữa những
người dân Pháp mà tôi rất yêu mến. Tôi chết trước
thời hạn, bị giết bởi thể chế hoạt đầu Anh (the
English oligarchy) và do các kẻ sát nhân được thuê
mướn”.
Di chúc của Napoléon
Ngày 5 tháng 5 năm 1821, cựu Hoàng Đế Napoléon đã
thều thào câu nói : “Thượng Đế của tôi, Nước Pháp,
con trai của tôi, vị chỉ huy quân đội”. Napoléon đã
qua đời lúc 5:49 giờ chiều ngày hôm đó, khi chưa
tròn 52 tuổi. Thi thể của ông được mặc vô bộ quân
phục mà ông ưa thích và được phủ lên bằng tấm áo
choàng màu xám, tấm áo trận mà ông đã khoác trong
trận đánh Marengo. Đám tang của ông được tổ chức đơn
giản tại thung lũng Rupert, nơi ông thường đi tản bộ
và trên nấm mộ bên cạnh 2 cây liễu rủ, có tấm đá ghi
hàng chữ : “Nơi đây an nghỉ “ (Ci-git).
Vào năm 1840, Hoàng Tử Francois, con của Vua
Louis-Philippe nước Pháp, đã được phái đi trên một
tầu chiến tới đảo St. Helena để mang về Pháp di cốt
của cựu Hoàng Đế Napoléon theo như ước nguyện cuối
cùng của ông. Lễ an táng rất trọng thể được tổ chức
tại thành phố Paris vào tháng 12 năm đó, và linh cữu
của Napoléon Bonaparte được đưa qua Khải Hoàn Môn
(Arc de Triomphe) và đặt tại Giáo Đường Du Dome
(Eglise du Dome), một bộ phận của Đài Chiến Sĩ Trận
Vong (Hotel des Invalides).
Napoléon Bonaparte vừa là một nhân vật lịch sử, vừa
là một nhân vật huyền thoại và đôi khi, khó lòng
tách biệt 2 đặc tính này vì các sự kiện trong cuộc
đời của ông đã từng làm bừng sống trí tưởng tượng
của các văn sĩ danh tiếng, các nhà viết kịch có tầm
vóc lớn và các nhà làm phim đa tài, họ là những
người đã xây dựng nên các huyền thoại Napoléon.
Napoléon Bonaparte là một trong các vị lãnh đạo quân
sự thiên tài bậc nhất trong Lịch Sử. Người ta đã coi
ông là kẻ chinh phục ham quyền và chính Napoléon đã
từng nói rằng ông không muốn chinh phục các dân tộc
khác mà chỉ muốn xây dựng một liên bang các dân tộc
tự do của châu Âu với một chính quyền cấp tiến.
Nhưng vì mục đích này, Napoléon đã muốn tập trung
mọi quyền lực vào trong tay mình.
Tại châu Âu và tại nước Pháp, câu châm ngôn “Tự Do -
Bình Đẳng - Huynh Đệ” của cuộc Cách Mạng năm 1789
tuy chưa cho phép người dân Pháp thụ hưởng đầy đủ
nền Dân Chủ như trong thế kỷ 20, nhưng từ năm 1815,
dân chúng Pháp đã được đôi phần nào Tự Do hơn, giới
trung lưu đã không còn gặp các giới hạn của chế độ
cũ cấm đoán, các người Tin Lành, Do Thái và các nhà
tự do tư tưởng đã nhận được sự dung thứ (toleration)
trên miền đất Pháp và trên các xứ vệ tinh của Pháp.
Hiến Pháp năm 1815 của nước Pháp tuy chưa đáp ứng
được các lý tưởng dân chủ liệt kê qua Bản Tuyên Bố
Dân Quyền (the Declaration of the Rights of Man)
nhưng đã bao gồm trong đó một hình thức mới về tính
Dân Chủ.
Cuộc Cách Mạng Pháp và Đế Chế Napoléon cũng đặt ra
căn bản về quyền bình đẳng trước nghĩa vụ phải đóng
thuế. Giai cấp thứ ba (the 3rd estate) được cung cấp
nhiều cơ hội kinh tế hơn, các trở ngại áp đặt vào
các hoạt động thương mại bị gỡ bớt, các phần đất
rộng lớn của hai giai cấp quý tộc và tu sĩ bị phân
chia, truyền qua tay giới tư sản thành thị và giới
nông dân giàu có. Tính bình đẳng về tài sản
(property) được xác nhận trong đạo luật Ventose của
năm 1794 rồi về sau được bổ túc.
Cuộc Cách Mạng Pháp là một bước quan trọng trong
việc đi lên của giới tư sản trung lưu, thuộc cả về
thành thị lẫn nông thôn. Bộ Luật Napoléon sau đó đã
chôn vùi mọi bất bình đẳng xã hội của chế độ cũ và
cũng vì thế, Napoléon đã nói : “Bất kể tôi là Tổng
Tài Thứ Nhất hay là Hoàng Đế, tôi đã là một vị Vua
của dân chúng : tôi đã cai trị vì quốc gia, và vì
lợi ích của quốc gia mà không để chính mình bị thiên
lệch vì lời phản đối hay vì các tư lợi của một nhóm
người nào”.
Cuộc Cách Mạng Pháp và Đế Chế Napoléon cũng làm
thăng tiến tình huynh đệ qua đó, mọi người dân Pháp
được coi là bình đẳng trước Pháp Luật và đồng thời
cũng cổ động cho tinh thần quốc gia (nationalism),
một tình cảm thuộc về một quần thể rộng lớn hơn là
nước Pháp, một quốc gia được người dân coi là ưu
đẳng hơn các quốc gia khác. Từ trước năm 1789, tinh
thần quốc gia Pháp đã tồn tại qua các nhân vật như
Joan of Arc, Vua Henry IV và Vua Louis 14 để rồi về
sau, tinh thần quốc gia đó lại thể hiện qua đạo luật
tổng động viên ngày 23-8-1793 của Hội Nghị Quốc Ước.
Đế Chế Napoléon đã cho thấy tinh thần quốc gia đã dễ
dàng đưa đến chế độ “đế quốc” với tầm vóc lớn lao mà
trước kia chưa từng thấy.
Trong cuộc Cách Mạng Pháp, Robespierre và các đảng
viên Jacobin là những người làm chính trị không nhân
nhượng, tiếp theo là các nhân vật Thermidor và
Brumaire trở nên thực tế hơn và ôn hòa hơn, rồi sau
đó dưới thời Napoléon, tinh thần cách mạng đã trở
thành một loại “tôn giáo”, đòi hỏi tới đặc tính
chính thống chính trị (political orthodoxy), và tinh
thần “quốc gia” sau năm 1815 đã tạo nên “các chiến
sĩ, các tông đồ và các người tử đạo” (martyrs) tại
nhiều nơi trên mặt đất.
Sau khi Napoléon Bonaparte qua đời, đã có các cuốn
sách chê trách cũng như ca tụng danh tiếng của vị
cựu Hoàng Đế này. Nhà văn người Pháp rất nổi danh và
có cảm tình hoàng gia là ông Francois de
Chateaubriand đã viết ra một tác phẩm văn chương chỉ
trích Napoléon, có tên là “Về Buonaparte và dòng họ
Bourbons, và sự cần thiết phải tập hợp quanh các ông
hoàng chính gốc của chúng ta, vì sự an toàn của nước
Pháp và của châu Âu “ (De Buonaparte, des Bourbons
et de la nécessité de se rallier à nos princes
légitime, 1814). Về sau vào năm 1870, khi Đế Chế
Pháp thứ hai (the Second Empire) sụp đổ, cũng có các
sách chê trách Napoléon mà đại biểu là cuốn “Các
nguồn gốc của nước Pháp hiện đại” (Origines de la
France contemporaine, 1876-94) của Hippolyte Taine.
Napoléon Bonaparte cũng bị các nhà lý trí
(rationalist) thuộc nhóm Bách Khoa (Encyclopédie)
phê phán là “ông kẹ người đảo Corsica” (the Corsican
ogre), người đã dám hy sinh 500,000 đồng bào vì các
tham vọng của mình.
Trái với các lời phê bình kể trên, các huyền thoại
về Napoléon Bonaparte đã phát triển rất mau. Các
cuốn hồi ký, tường thuật, ghi chép của những người
đi đầy theo cựu Hoàng Đế đã đóng góp rất đáng kể vào
việc tạo dựng nên các huyền thoại đó. Ngay từ năm
1814, đã có các thơ văn ca tụng Napoléon, chẳng hạn
như bài thơ ngắn của Lord Byron (Ode to Napoléon
Bonaparte), bài thơ “Die Grenadiere” (Người lính bộ
binh) của thi hào người Đức Henrich Heine. Cuộc đời
của Napoléon được mô tả lại qua tác phẩm “Vie de
Napoléon” của tiểu thuyết gia người Pháp Stendhal
vào năm 1817.
Năm 1822, Bác Sĩ O'Meara đã cho xuất bản tại London
cuốn sách “Napoléon trong cảnh tù đày” (Napoléon in
Exile) rồi năm sau, 1823, xuất hiện cuốn sách của
Montholon và Gourgard với tên là “Hồi Tưởng để dùng
cho lịch sử của nước Pháp dưới thời Napoléon, viết
tại Sainte-Helène do Hoàng Đế đọc ra” (Mémoires pour
servir à l'histoire de France sous Napoléon, écrits
à Sainte-Helène sous sa dictée). Người thư ký riêng
của Napoléon là ông Las Cases cũng trình bày cựu
Hoàng Đế như là một người cộng hòa, đã chống lại
châu Âu để bảo vệ Tự Do, qua tác phẩm nổi tiếng “Hồi
Tưởng” (Memorial). Cuốn sách “Các giờ phút cuối của
Napoléon” (Derniers moments de Napoléon) của Bác Sĩ
Antommarchi cũng được in ra vào năm 1825 và con số
các tác phẩm ca tụng Napoléon đã gia tăng rất nhiều,
đáng kể là bài thơ ca ngợi của Victor Hugo (Ode à la
Colonne), trong toàn tập 28 cuốn “Các vinh quang và
chinh phục của người Pháp” (Victoires et conquêtes
des Francais), và tác phẩm của Sir Walter Scott
“Cuộc đời của Napoléon Bonaparte, Hoàng Đế của người
Pháp” (Life of Napoleon Bonaparte, Emperor of the
French).
Napoléon Bonaparte là một nhân vật đã để lại nhiều
định chế lâu bền mà trên đó nước Pháp ngày nay vẫn
còn được xây dựng, đó là hệ thống hành chính của các
tỉnh (prefects), Bộ Luật Napoléon, hệ thống tư pháp,
Ngân Hàng Pháp Quốc và tổ chức tài chính quốc gia,
các đại học và các hàn lâm viện quân sự.
Napoléon Bonaparte là một danh nhân đã làm thay đổi
Lịch Sử của nước Pháp và của Thế Giới. |