Những bài cùng tác giả
Adolf Hitler (1889 - 1945) nhà độc
tài Ðức Quốc Xã
1/ Nước Đức sau Thế Chiến Thứ Nhất.
Từ ngày 26 tháng 9 năm 1918, các nước Đồng Minh đã
phản công lần thứ hai chống lại nước Đức. 220 sư đoàn đã đồng loạt
tấn công dọc theo trận tuyến từ bờ biển nước Bỉ kéo dài tới thị trấn
St. Mihiel, bắt đầu bằng lực lượng Pháp – Hoa Kỳ đánh vào vùng hai
con sông Meuse – Argonne. Ngày hôm sau, 40 sư đoàn quân Anh phối hợp
với 2 sư đoàn quân Hoa Kỳ tấn công vào phòng tuyến Hindenburg rồi
vào ngày kế tiếp, 28 sư đoàn của Vua Albert, gồm các đạo quân Bỉ,
Pháp, Anh và Hoa Kỳ đánh vào miền Flanders. Tất cả những đợt tấn
công này đã bắt buộc quân đội Đức phải rút lui về phía sau sông
Scheld tại phía bắc và thành phố Sedan tại phía nam.
Nhìn thấy cảnh thất trận tới gần, Tướng Ludendorff đã thông báo cho Hội
Đồng Chiến Tranh Hoàng Gia Đức (the Imperial Council of War) vào ngày 29
– 2 – 1918 rằng nước Đức phải tìm kiếm một cuộc đình chiến đặt trên căn
bản 14 điểm của Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson. Ngày 03 – 10 – 1918,
Hoàng Đế Đức (Kaiser) đã chỉ định ông Hoàng Max von Baden làm Chưởng Ấn
(Chancellor = Thủ Tướng) với hy vọng tạo được một chính phủ ổn định theo
Hiến Pháp, nhưng tình trạng trong nước Đức đã trở nên quá rối ren. Đã có
các cuộc nổi loạn tại khắp nơi, các hội đồng công nhân và quân nhân xuất
hiện tại mỗi thành phố, lính thủy làm loạn tại Kiel, miền Bavaria tuyên
bố thành lập một nước cộng hòa xã hội vào ngày 07 – 11 – 1918. Sau đó 2
ngày, ông Hoàng Max von Baden công bố sự thoái vị của Vua Wilhelm II và
việc thành lập chính phủ lâm thời bởi ông Friedrich Ebert, một nhà dân
chủ xã hội. Vào ngày 10 tháng 11, Hoàng Đế Wilhelm II lên một toa xe
lửa, rời nước Đức đi tị nạn tại Hoà Lan.
Sáng ngày 11 – 11 – 1918, các đại diện của nước Đức và các nước Đồng Minh
đã ký một bản đình chiến trên một toa tầu nằm trong rừng Compiègne, phía
bắc của thành phố Paris, nước Pháp. Từ đây, nước Đức đồng ý từ bỏ tất cả
các miền đất đã chiếm được, chấp nhận lui quân đội về phía tây giòng
sông Rhine, tháo gỡ các công sự chiến đấu trong miền Rhineland và miền
này bị chiếm đóng trong 15 năm, đầu hàng toàn thể bộ máy chiến tranh và
hạm đội, và quân đội Đức bị giới hạn ở quân số 100 ngàn người.
Đúng 11 giờ sáng ngày 11 tháng 11 năm 1918, Thế Chiến Thứ Nhất đã chấm
dứt. Trên toàn thế giới và châu Âu, mọi người đã reo mừng. Tuy nhiên,
vết thương chiến tranh còn in hằn trên lục địa châu Âu trong nhiều thập
niên.
Vào năm 1919, đất nước Đức nằm trong hoàn cảnh tang thương của thời kỳ hậu
chiến. Sự thất trận làm tổn thương tinh thần của người dân Đức, nền kinh
tế bị kiệt quệ vì thiếu thốn đủ thứ, hàng triệu người lính Đức trở về
nhà, về đời sống dân sự mà không thể kiếm ra được công ăn việc làm. Tại
nhiều thành phố đã xẩy ra các cuộc xáo trộn xách động bởi các người Cộng
Sản. Nhiều quân nhân cũ do thất nghiệp, không thể hội nhập vào đời sống
dân sự nên đã tham gia vào đoàn quân Freikorps (đoàn quân tự do), là một
loại băng đảng bán quân sự, thường chống lại các người Cộng Sản, thường
đi ăn cướp hay phá hoại.
Sau Thế Chiến Thứ Nhất, chính phủ của nước Đức được bầu lên vào ngày 19 –
1 – 1919 và dẫn đầu bởi 3 đảng phái thiên cộng hòa. Chính phủ này đã họp
lần đầu tiên tại thành phố Weimar để tránh sự xáo trộn của thành phố
Berlin. Weimar là nơi tượng trưng cho hòa bình và triết lý của nước Đức
thời bấy giờ. Hiến Pháp Weimar cũng cởi mở, có mục đích thay thế cách
độc đoán của Vua Wilhelm II với các nghị viên chỉ biết vâng lời. Đất
nước Đức vào thời gian này đang cần tới sự đại diện dân chủ. Trong cuộc
bầu cử lần thứ nhất, 3 đảng phái ôn hòa đã nhận được ba phần tư phiếu
bầu. Thời đó phe Cộng Sản đã tẩy chay cuộc bầu cử và đảng Quốc Xã chưa
thành hình. Nhưng các điều kiện nghiêm khắc của Hòa Ước Versailles áp
đặt lên nước Đức thất trận đã khiến cho Chưởng Ấn Phillip Scheideman từ
chức vào tháng 6 năm 1919 vì không chịu chấp nhận các điều kiện đó.
Trước sự đe dọa của phe Đồng Minh là sẽ xâm lăng hay phong tỏa các miền
kỹ nghệ trù phú, chính phủ mới của nước Đức hậu chiến bị khuất phục và
phải ký Hòa Ước Versailles vào ngày 28 – 6 – 1919.
Tình trạng chính trị của nước Đức lại rối tung thêm khi Tướng Erich von
Ludendorff tuyên bố rằng quân đội Đức chưa thua trận và Bộ Tham Mưu Đức
bị đâm sau lưng. Vị trí của chính phủ dân sự vì thế càng trở nên yếu kém
hơn. Các nhà lãnh đạo mới của Cộng Hòa Weimar non nớt đã không quen cách
dùng quyền lực. Họ đã không biết đoàn kết để bảo vệ chính nghĩa, họ
thường tranh cãi nhau trong suốt các năm từ 1918 tới 1933 và đã vụng về
trao nền trật tự công cộng cho nhóm Freikorps tàn bạo, cho quân đội còn
lại hay cho nhóm Nazi bán quân sự. Các nhà chính trị dân chủ này đã
thương thảo với các kẻ cực đoan, với hy vọng là có thể thuần hóa được
chúng trong đường lối đấu tranh dân chủ khi cho chúng tham gia vào chính
quyền.
Hiến Pháp mới của nước Đức vào các năm sau Thế Chiến Thứ Nhất đã không thể
huấn luyện tinh thần và tập quán dân chủ cho một dân tộc hiếu chiến, qua
một thế kỷ đã biết rất ít về thể chế dân chủ! Mặt khác, các vị khoa
bảng, các giáo sư danh tiếng vào thời kỳ đó vẫn còn tuyên truyền cho chủ
nghĩa quyền lực và sự vượt trội của Dân Tộc Đức và những nhà lãnh đạo
đương thời thì bị coi là ôn hòa, bảo thủ, thường thiên vị các kẻ cánh
hữu thích âm mưu khủng bố, hơn là các kẻ chống đối cánh tả. Trong khi đó
người dân Đức lại đem lòng nhớ tiếc các kỷ niệm huy hoàng của thời chiến
tranh, chán nản trước các xáo trộn kinh tế hiện đang diễn ra và các cuộc
cãi cọ chính trị thường xẩy ra giữa các đảng phái. Dĩ nhiên là dân chúng
Đức mong mỏi tình trạng kỷ luật, trông đợi sự đoàn kết và những điều này
đã khiến cho Đảng Quốc Xã sau này nắm quyền và đưa đất nước Đức vào nơi
thảm khốc.
2/ Thiếu thời của Hitler.
Adolf Hitler sinh ngày 20 tháng 4 năm 1889 tại Braunau, một tỉnh nhỏ trên
bờ sông Inn, biên giới Đức – Áo, về phía nước Áo. Adolf là người con thứ
tư của lần lập gia đình thứ ba của ông Alois Hitler, một nhân viên quan
thuế. Khi Adolf chào đời, ông Alois đã 51 tuổi và mẹ của Adolf là Klara
Poelzl, thời đó 28 tuổi, con gái một nông dân. Mẹ của ông Alois Hitler
là Anna Maria Schicklgruber, đã ăn ở không giá thú với một người thợ xay
lúa sống lang thang tên là Johan Georg Hiedler khi Alois lên 5 tuổi và
ông Johan này đã không nhìn nhận Alois làm con cho đến khi ông ta qua
đời vào năm 1856. Một người em của ông Johan đã xếp đặt để cho Alois
được ghi danh là con chính thức của ông Johan Georg Hiedler rồi vị tu sĩ
khi ghi tên đã viết sai chữ Hiedler thành “Hitler”. Cũng vì thế khi
Adolf Hitler lên nắm chính quyền, các đối thủ đã nhục mạ và gọi nhà độc
tài này bằng tên Schicklgruber. Trong số 8 người con của ông Alois, chỉ
có 4 người sống sót tới tuổi trưởng thành. Adolf có một người chị tên là
Paula, 2 người anh em cùng cha khác mẹ là Alois và Angela.
Sau khi Adolf được 6 tuổi, ông Alois về hưu và dời cư về gần Linz, nước
Áo. Tại bậc tiểu học, Adolf học giỏi nhưng lên bậc trung học lại học
kém, nên đã làm phật lòng người cha nóng tính và bất thường. Ông Alois
muốn con trai trở thành một công chức nhưng Adolf lại muốn là một nghệ
sĩ. Ông Alois Hitler chết vào năm 1903 và hai năm rưỡi sau đó, Adolf bỏ
học khi 16 tuổi. Bà mẹ của Adolf lúc này sống nhờ tiền trợ cấp và một số
tài sản còn lại, vì thế Adolf đã không đi kiếm việc mà cả ngày ngồi vẽ,
đọc sách hay mơ mộng.
Vào năm 1907, Adolf Hitler tới thành phố Vienna là thủ đô của nước Áo –
Hung. Adolf muốn theo học trường Mỹ Thuật nhưng đã thi rớt 2 lần trong
kỳ thi nhập học. Cũng vào năm 1907, mẹ của Adolf qua đời, để lại cho
chàng một số tài sản. Adolf sống nhờ tiền trợ cấp mồ côi. Trong thời
gian này, chàng Adolf sống thoải mái như một nghệ sĩ, đôi khi cũng bán
được vài tấm tranh. Ngoài nghệ thuật Hội Họa, Adolf Hitler cũng đọc sách
và quan tâm tới các sinh hoạt chính trị, thán phục cách tổ chức và đường
lối lãnh đạo hữu hiệu của đảng Dân Chủ Xã Hội (the Social Democratic
Party) của thành phố Vienna. Tại thành phố này vào thời bấy giờ thường
có các cuộc chống đối người Do Thái, một dân tộc bị làm dê tế thần của
châu Âu qua nhiều thế kỷ. Cũng vì thế trong tâm hồn Adolf Hitler đã sinh
ra sự căm thù hai giống dân Do Thái và Slav. Giống như các người Áo nói
tiếng Đức, Adolf Hitler có đầu óc quốc gia cực đoan và đã có lần nói
“Tôi ghê tởm tập hợp nhiều giống dân đang sống tại thành phố Vienna, ghê
tởm sự pha trộn các người Tiệp, Hung, Ba Lan, Ruthenian, Serbs và
Croats... “. Hitler tin tưởng rằng người Do Thái và các giống dân thấp
hèn khác đã tìm cách phá hủy nước Đức và Hitler rất ghét chủ nghĩa
Bôn-Xê-Vích (bolshevism), e ngại về chính thể Dân Chủ. Hitler có tham
vọng về giấc mơ của Hoàng Đế Đức, tức là nền thống trị của người Đức
trên toàn lục địa châu Âu, nhưng các kiến thức chính trị và kinh tế của
Hitler còn mơ hồ và nông cạn.
Vào năm 1913, Hitler dọn về Munich thuộc nước Đức và đã tình nguyện đầu
quân nhưng quân đội đã không chấp nhận vì không đủ sức khỏe. Tháng 8 năm
1918, Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ. Adolf Hitler lại xin phục vụ quân đội
và lần này được chấp nhận trong một trung đoàn bộ binh, đóng tại miền
Bavaria. Hitler đã làm chân giao liên (dispatch runner) tại mặt trận
phía tây, đã bị thương, được huy chương hai lần vì cam đảm và được thăng
cấp hạ sĩ.
Khi nước Đức đầu hàng sau Thế Chiến Thứ Nhất, Hitler đang nằm trong bệnh
viện vì bị thương do hơi mù tạc (mustard gas). Hitler còn phục vụ quân
đội tới tháng 4 năm 1920, đầu tiên làm lính gác tù binh, rồi làm huấn
luyện viên cho binh sĩ giải ngũ và cuối cùng lãnh chân “chính trị viên”
(political agent) của Bộ Chỉ Huy Khu Munich. Sau Thế Chiến Thứ Nhất,
Munich là thành phố rất xáo trộn bởi các người Cộng Sản và bọn
Freikorps, nhờ vậy mà Adolf Hitler có được cơ hội hiểu rõ các ưu khuyết
điểm của hai nhóm người này. Hitler bị xuống tinh thần rất nhiều do tin
thất trận và cho rằng chủ quyền của nước Đức đang bị đe dọa, cần phải
chính mình cứu lấy nước Đức.
3/ Sự đi lên của Đảng Quốc Xã.
Khi còn phục vụ quân đội, Hitler đã tham gia đảng Công Nhân Đức (the
German Workers’ Party). Đây là một đảng nhỏ của một nhóm người quốc gia
(a nationalist group) có đường lối chối bỏ chính quyền Berlin, vì vậy đã
thu hút được nhiều cựu quân nhân. Hitler là đảng viên thứ 55 và là nhân
vật thứ 7 trong ủy ban điều hành. Hitler là một nhà hùng biện có tài nên
vào giữa thập niên 1920, đã trở nên người phát ngôn chính cho Đảng và
cũng là nhà ý thức hệ. Sau đó đảng Công Nhân đổi tên là Đảng Công Nhân
Quốc Gia Xã Hội Đức (the National Socialist German Workers’ Party), gọi
tắt là Đảng Nazi hay Đảng Quốc Xã. Đảng này chủ trương đặc tính thuần
quốc gia Đức (pan-German nationalism), lập chương trình đoàn kết vào một
quốc gia toàn thể người Đức bao gồm cả các người Áo và các nhóm dân
thiểu số Đức sống trên những miền đất khác như Tiệp Khắc, Hungary. Đảng
này có các tư tưởng cấp tiến về kinh tế, kêu gọi phải tước bỏ quốc tịch
Đức khỏi các sắc dân Do Thái hay không phải là Đức, và Đảng cũng kêu gọi
sự hủy bỏ Hiệp Ước Versailles. Dần dần về sau, đảng Quốc Xã đã mang cá
tính và lòng hận thù của Hitler. Quyền hành của đảng được chỉ thị từ
trên xuống còn trách nhiệm lại phải đi từ dưới lên trên, với lòng tin
tưởng tuyệt đối là vị lãnh tụ không bao giờ nhầm lẫn cả, luôn luôn anh
minh và sáng suốt.
Adolf Hitler là một nhà chính trị khéo léo và một người tổ chức có tài.
Ông ta đã trở nên nhân vật lãnh đạo Đảng và xây dựng Đảng với một số lớn
đảng viên trong một thời gian ngắn, một phần nhờ tài hùng biện, biết
xách động quần chúng bằng những bài diễn văn giật gân, nẩy lửa. Hitler
đã công kích chính phủ và công bố rằng chỉ có Đảng Quốc Xã là có thể
phục hồi nền kinh tế, mang lại công việc làm ăn cho mọi người và lại đưa
nước Đức tới cảnh hùng vĩ.
Hitler cũng tổ chức một đội quân tinh nhuệ riêng có tên là “đội quân Vũ
Bão S.A.” (Sturmabteilung). Các đảng viên Quốc Xã mặc đồng phục gồm áo
sơ mi màu nâu, mang huy hiệu chữ “Vạn” (swastika emblem). Vào năm 1922,
đảng Quốc Xã đã có 10,000 đảng viên rồi tới tháng 10 – 1923, quân số của
đội S.A. lên tới 15 ngàn người, được trang bị súng trường và súng máy.
Mùa đông năm 1923, quân đội Pháp và Bỉ đã tiến vào miền kỹ nghệ Rhur để
bắt buộc nước Đức phải bồi thường chiến tranh. Khi đó chính phủ Weimar
chỉ biết kháng cự thụ động còn các công nhân chống đối bằng các cuộc
đình công và phá hoại. Sự tê liệt sản xuất về than và thép tại miền Rhur
đã làm cho nạn lạm phát gia tăng. Giá trị đồng Mark giảm xuống từ 400
xuống 1 vào giữa năm 1922, rồi sau đó từ 7,000 xuống 1 vào cuối năm
1923. Các cuộc nổi loạn Cộng Sản và quốc gia đã xẩy ra trên toàn nước
Đức. Nước Cộng Hòa Đức đang trên bờ tan rã. Tiểu bang Bavaria khi đó là
nơi công khai chống lại chính quyền trung ương tại Berlin. Hitler đã
nhìn thấy một cơ hội để lật đổ chính quyền địa phương lẫn chính phủ
trung ương. Vào ngày 8 – 11 – 1923, tại một buổi tụ họp trong Phòng Uống
Bia ở Munich, Hitler đã cố gắng cướp chính quyền địa phương Bavaria.
Thời đó Hitler đã có được sự ủng hộ của Tướng Erich von Ludendorff, đã
dẫn đầu đội quân S.A. 2,000 người trong một cuộc biểu dương lực lượng
chống lại quân đội của chính phủ sở tại. Nhưng cảnh sát tiểu bang đã nổ
súng, giết chết 16 người tuần hành và làm ngừng cuộc diễn hành. Âm mưu
đảo chánh thất bại. Hitler bị bắt, bị kết tội phản bội và bị kết án 5
năm tù.
4/ Cuốn sách “Cuộc Tranh Đấu của Tôi”.
Chính phủ Weimar thời đó đã quá nhân từ đối với các kẻ quá khích. Đây là
những người đã khéo léo khoác ra ngoài chủ nghĩa quốc gia yêu nước. Đồng
thời, trong phiên tòa xét xử Hitler với tội đảo chánh, các quan tòa lại
nhân nhượng Hitler và đã để cho phe báo chí biến cuộc xét xử này thành
một diễn đàn chống chính phủ. Hitler lại được giam cầm trong nhà tù đầy
tiện nghi Landsberg và chỉ chịu ở tù 9 tháng rồi được trả tự do với điều
kiện.
Trong thời gian nằm tù, Hitler đã lợi dụng thời gian này để đọc sách và
soạn thảo cuốn “Cuộc Tranh Đấu của Tôi” (Mein Kampf). Trong cuốn sách
này, Hitler mô tả các ý tưởng và niềm tin về một nước Đức tương lai, với
chương trình chinh phục phần lớn đất đai của châu Âu, bao gồm các miền
đất đã mất vì Thế Chiến Thứ Nhất, gồm nước Áo và các miền của Tiệp Khắc
có dân Đức sinh sống. Đế Quốc Đức theo mô tả đó sẽ trải dài từ một phần
Liên Xô tại phía đông, qua Ba Lan tới các quốc gia ở phía tây.
Theo Hitler, nước Đức tượng trưng cho một giống dân ưu việt và sự thuần
chủng đòi hỏi người dân Đức tránh kết hôn với các giống dân Do Thái và
Slav. Hitler cho rằng những điều xấu xa đều do loại người Do Thái và đã
tố cáo họ làm hư hỏng các giá trị đạo đức và quốc gia. Hitler đã tuyên
bố : “bằng cách bảo vệ chính tôi đối với các người Do Thái, tôi đã làm
công việc của Thượng Đế” (by defending myself against the Jews, I am
doing the Lord’s work). Hitler cũng cho rằng chế độ Dân Chủ (democracy)
chỉ dẫn đến chủ nghĩa Cộng Sản và chế độ độc tài là cách duy nhất để cứu
giúp nước Đức ra khỏi mối đe dọa của chế độ Cộng Sản và sự phản bội của
các người Do Thái.
Hitler được thả khỏi nhà tù vào tháng 12 năm 1924, trở lại Munich và thấy
đảng Quốc Xã đang ở trong tình trạng hỗn loạn. Đảng này cũng bị chính
phủ Đức đặt ra ngoài vòng pháp luật, nhiều đảng viên chạy qua các đảng
phái khác. Vì bị cấm nói chuyện tại nơi công cộng, Hitler dồn thời giờ
vào việc tổ chức và củng cố đảng Quốc Xã. Hitler cũng dần dần thuyết
phục được chính phủ Đức rằng đảng này sẽ hoạt động hợp pháp để rồi chính
phủ hủy bỏ lệnh cấm. Đồng thời Hitler cũng có thêm được một số bạn bè
nơi các tỉnh nhỏ, trong các công đoàn lao động, một số nông dân, thương
gia và kỹ nghệ gia...
Vào năm 1924, tình trạng nước Đức cũng khả quan hơn về nhiều mặt. Nạn lạm
phát đã được giảm bớt vì các cải cách tài chính và các bạo động chính
trị cũng giảm đi. Các tiểu bang Đức và chính phủ liên bang đã hòa giải
được một số bất đồng, trong khi đó Bộ Trưởng Ngoại Giao Đức là ông
Gustav Streseman đã cải thiện được vị trí của nước Đức trên trường quốc
tế và làm cho nước này gia nhập được vào Hội Quốc Liên (the League of
Nations) vào năm 1926. Từ năm 1925, Tổng Thống của nước Đức là Friedlich
Ebert qua đời và được thay thế bởi Thống Chế Paul von Hindenburg, 77
tuổi, một vị anh hùng dân tộc. Uy tín của ông Hindenburg đã làm yên lòng
người dân rằng Đức Quốc sẽ trở nên một nước dân chủ. Tại mọi nơi trong
nước, đã có dấu hiệu của cảnh phục hồi sau chiến tranh. Phần lớn người
dân Đức đã có công việc làm ăn, nhà ở, thực phẩm và mọi người hy vọng ở
tương lai.
Sau khi trở lại đảng Quốc Xã, Hitler nắm quyền lãnh đạo và chuẩn bị một
cuộc đấu tranh mới, lần này bằng các phương tiện hợp pháp. Ông ta bắt
đầu thanh lọc đảng, cố gắng lấy được cảm tình của Quân Đội và sự ủng hộ
tài chính của các giai cấp bảo thủ. Để làm quân bình đội S.A., Hitler
cho thành lập một đội bảo vệ tinh nhuệ, lấy tên là S.S. (Schutzstaffel =
đội bảo vệ), gồm các vệ sĩ chỉ biết trung thành với lãnh tụ. Hitler cũng
tập hợp quanh mình một số nhân vật mà sau này sẽ đưa ông ta lên nắm
chính quyền, bao gồm : Joseph Goebbels, nhà tuyên truyền Quốc Xã hàng
đầu, Hermann Goering, người lãnh tụ hàng thứ nhì sau Hitler, Rudolf
Hess, một thư ký riêng trung thành, Heinrich Himmler, lãnh đạo đội quân
S.S.; Ernst Roehm, lãnh đạo đội quân S.A. và Alfred Rosenberg, nhà triết
lý của Đảng. Joseph Goebbels cũng là chủ nhiệm một tờ báo Quốc Xã và sau
này là nhà tâm lý quần chúng tài giỏi nhất của thế kỷ. Đảng viên Quốc Xã
vào năm 1928 đã lên tới 60,000 người và đã chiếm được 2.6% phiếu bầu
trong các cuộc tranh cử Reichstag.
5/ Cuộc khủng hoảng kinh tế và hậu quả.
Vào tháng 10 năm 1929, Bộ Trưởng Ngoại Giao Đức Gustav Streseman chết. Vào
thời kỳ này, sự thịnh vượng của nước Đức tùy thuộc vào nền giao thương
quốc tế và tín khoản của Hoa Kỳ. Khi thị trường chứng khoán của Hoa Kỳ
sụp đổ, cả hai điều kiện kể trên đã ảnh hưởng mạnh đến nước Đức. Cũng
vào năm này, nước Đức đồng ý về kế hoạch Young là hoạch định lại việc
bồi thường chiến tranh.
Kinh tế đi xuống, nạn thất nghiệp gia tăng hơn 20 phần trăm, người dân Đức
mất tin tưởng vào các nhân vật ôn hòa đã tạo ra nền Cộng Hòa Weimar, vì
thế các lực lượng Cộng Sản và Quốc Xã gia tăng rất nhanh.
Từ tháng 3 – 1930 tới tháng 5 – 1932 là thời gian của chính phủ do Chưởng
Ấn Heinrich Bruning lãnh đạo. Ông Bruning là một nhân vật theo đạo Thiên
Chúa La Mã, thuộc đảng Trung Tâm (Center party), đã xử dụng quyền lực
Hiến Pháp của Tổng Thống Von Hindenburg để điều hành Quốc Hội
(Reichstag) và cai trị đất nước bằng các nghị định (decrees). Vào năm
1932, Quốc Hội Đức đã chỉ thông qua 5 đạo luật nhưng đã ban hành 60 nghị
định. Các nghị định của Chưởng Ấn Bruning ban ra là để đối phó với lương
bổng và giá hàng chống lại nạn lạm phát, đối phó với các cuộc bảo động
quá khích ... Giống như các đối thủ khác của Hitler, ông Bruning đã đánh
giá quá thấp hiểm họa do đảng Quốc Xã sẽ gây ra, khiến cho khi đã nhận
chân được sự thực thì mọi việc đã quá trễ, không cứu vãn nổi!
Việc công bố chương trình Young về bồi thường chiến tranh đã bị Hitler
phản đối kịch liệt từ năm 1929. Hitler đã tạo ra một phong trào chống
đối toàn quốc và cách vận động đó đã khiến cho đảng Quốc Xã trở nên một
sức mạnh chính trị chính yếu trong nước. Hitler đã dẫn đầu các cuộc tuần
hành, tổ chức nhiều cuộc mít tinh đông đảo và đọc diễn văn kêu gọi tại
rất nhiều nơi trên nước Đức. Hitler cũng hạ bớt giọng kết án người Do
Thái, hứa hẹn sẽ loại trừ bọn Cộng Sản và các kẻ thù khác và tuyên bố sẽ
đoàn kết lại nước Đức cùng với các phần đất nói tiếng Đức. Đồng thời
đảng Quốc Xã đã vận động được sự ủng hộ của Quân Đội, Cảnh Sát và các
nhà kỹ nghệ, hai đội quân S.A. và S.S. tuy là các đơn vị quân sự không
thuộc chính quyền, nhưng lại được võ trang đầy đủ.
Vào đầu năm 1932, thời kỳ 7 năm tại chức của Tổng Thống Hindenburg đã hết.
Ông Hindenburg lại ra tranh cử để chống lại Hitler và vài lãnh tụ thiểu
số khác. Kết quả sau bầu cử là Thống Chế Hindenburg được 53% số phiếu,
35% thuộc về Hitler và 10% là của ông Ernst Thalman, một ứng viên Cộng
Sản. Tới lúc này, Chưởng Ấn Bruning mới nhận thấy sự đe dọa của các hành
động bạo lực của các đoàn quân S.A. và S.S. của đảng Quốc Xã trong thời
gian tranh cử và đã khuyên Thống Chế Hindenburg ra sắc lệnh dẹp bỏ hai
tổ chức quân sự này. Tuy nhiên quân đội Đức thời bấy giờ đã từ chối thi
hành sắc lệnh. Sau đó nhiều áp lực đã làm từ chức ông Bộ Trưởng Quốc
Phòng của Chưởng Ấn Bruning và cả chính ông Bruning nữa.
Do chính phủ sụp đổ, Thống Chế Hindenburg liền mời một nhà quý tộc và cũng
là một nhân vật chính trị mới học hỏi, có tên là Franz von Papen. Ông
Von Papen kêu gọi một cuộc bầu cử mới vào ngày 31 – 7 – 1932 và tự phong
mình là Ủy Viên Reich trên toàn nước Phổ (Reich Commissioner for
Prussia). Nhưng các cuộc rối loạn ngoài đường phố vẫn xẩy ra hàng ngày
và lệnh thiết quân luật được áp dụng tại thành phố Berlin cũng như tại
vài thành phố khác.
Ông Von Papen đã làm Chưởng Ấn tới ngày 17 – 11 năm đó. Trong thời kỳ này,
Thống Chế Hindenburg đã đề nghị giao cho Hitler chức vụ Phó Chưởng Ấn
dưới quyền ông Papen nhưng Hitler đã từ chối. Vì thế chức vụ trên về tay
Tướng Kurt von Schleicher, một cố vấn chính trị của ông Hindenburg trong
nhiều năm. Ông Schleicher đã giữ được chức vụ chỉ trong 57 ngày trước
khi bị các âm mưu khác lật đổ, trong khi đó đảng Quốc Xã dần dần trở nên
một đảng phái chính trị mạnh nhất và Hitler đã không nhận bất cứ một
chức vụ nào, ngoài chức Chưởng Ấn (Thủ Tướng) của nước Đức.
Các nhà chính trị hàng đầu và dân chúng Đức thời bấy giờ đã không muốn
giao chức vụ quan trọng cho Hitler vì họ hiểu rằng Hitler sẽ trở nên độc
tài, toàn quyền thao túng nước Đức. Nhưng cuối cùng, vì tình hình rối
ren trong nước, vì các lời khuyên của bạn bè và của người con trai
Oskar, Thống Chế Von Hindenburg, 85 tuổi, đã chấp nhận lời hứa của
Hitler là sẽ hành động hợp pháp nếu Hitler được đứng ra tổ chức chính
phủ.
6/ Nhà độc tài của nước Đức.
Vào ngày 30 tháng 1 năm 1933, Thống Chế Hindenburg đã chỉ định Hitler làm
Chưởng Ấn, đứng đầu Nội Các gồm 11 nhân vật ôn hòa và 2 bộ trưởng Quốc
Xã là Hermann Goering và Wilhelm Frick. Nhiều người đã tin rằng cách xếp
đặt này sẽ giới hạn quyền lực của Hitler nhưng thực ra, Hitler luôn luôn
muốn nắm trọn mọi quyền hành trong tay.
Đảng Quốc Xã vào thời đó đã có Wilhelm Frick làm Bộ Trưởng Nội Vụ, kiểm
soát toàn thể lực lượng cảnh sát. Một nghị định khẩn cấp ký bởi Thống
Chế Hindenburg vào ngày 4 – 2 – 1933 đã chấp nhận đảng Quốc Xã hợp pháp,
cấm chỉ hội họp và đặt ra ngoài vòng pháp luật đảng Cộng Sản và các đảng
Xã Hội khác, xác nhận quyền kiểm duyệt báo chí và quyền bắt người vì
nghi ngờ phạm tội phản bội. Goering cũng cho thành lập một lực lượng
cảnh sát phụ gồm hàng ngàn nhân viên S.A. và những nhân viên này được
lệnh bắn thẳng vào các “kẻ thù”.
Với cảnh sát, báo chí và truyền thông trong tay, đảng Quốc Xã có thể dẹp
tan mọi chống đối và đòi hỏi một cuộc bầu cử mới sẽ tổ chức vào ngày 5
tháng 3 năm 1933. Vào đêm hôm 27 – 2 – 1933, vài ngày trước khi người
dân Đức đi bầu chính phủ mới, tòa Dinh Thự Reichstag là trụ sở của Quốc
Hội Lập Hiến Đức trong thành phố Berlin đã bị đốt cháy và chịu thiệt hại
nặng nề. Kẻ phá hoại là một người Hòa Lan vô chính phủ, thiên Cộng Sản,
đã bị bắt và thú nhận tội phạm. Về sau, nhiều sử gia tin rằng chính đảng
Quốc Xã đã bày ra mưu kế này.
Ngay trước khi kẻ phạm tội bị hỏi cung, Hitler đã soạn thảo một bản tuyên
bố, kết tội vụ đốt phá là dấu hiệu của một cuộc Cách Mạng Cộng Sản và
hứa hẹn với dân chúng Đức rằng sẽ hành động nhanh chóng. Trước ngày 28 –
2 năm đó, cảnh sát Đức đã bắt giữ hơn 4,000 người bị coi là chống đối
Hitler rồi sau đó, Thống Chế Hindenburg lại ký một nghị định khẩn cấp
khác trao quyền hành không giới hạn cho chính phủ. Mặc dù thế, cuộc bầu
cử vào ngày 5 tháng 3 đã chỉ mang lại cho đảng Quốc Xã 43.9% phiếu bầu,
dù cho đã có nhiều vụ khủng bố các phe đối lập. Sau cuộc bầu cử, các dại
diện của đảng Cộng Sản, một số bị bắt, một số không được phép tham gia
Quốc Hội, nhờ vậy đảng Quốc Xã đã nắm đa số. Ngày 23 tháng 3 năm 1933,
Quốc Hội do đảng Quốc Xã chiếm đa số thông qua một đạo luật cho phép
chính phủ toàn quyền và ngưng lại trong 4 năm mọi Nhân Quyền và các
quyền căn bản khác. Tới giữa tháng 7 năm 1933, chính phủ do Hitler cầm
đầu lại cấm đoán hẳn các đảng phái chính trị, các nghiệp đoàn lao động,
cấm chỉ mọi tự do ngôn luận, báo chí và hội họp, kiểm duyệt tất cả các
thư từ và nói chuyện điện thoại, cho quyền Cảnh Sát khám nhà hay tịch
thu tài sản mà không cần trát tòa ... và tất cả các quyền lợi của người
dân Đức bị “tạm ngưng cho đến khi có lệnh mới”. Án tử hình cũng được
dùng cho nhiều loại tội phạm.
Hitler và Goebbels đã nói chuyện tại nhiều cuộc mít tinh tổ chức tại nhiều
nơi trong nước Đức, loan báo rằng chỉ có đảng Quốc Xã mới có thể cứu
giúp đất nước ra khỏi tình trạng vô chính phủ của các người Cộng Sản.
Đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và một số nhà xã hội khác
bị bắt bớ, bị buộc vào các tội danh giả. Các công đoàn bị giải tán. Các
đội quân S.A. và S.S. bắt đầu lập ra các trại tập trung giam nhốt các tù
nhân chính trị, đồng thời Cơ Quan Gestapo (mật vụ Đức) săn lùng các kẻ
đối lập.
Đảng Quốc Xã đã dùng báo chí, truyền thanh và phim ảnh để nhồi nhét dân
chúng Đức những lời tuyên truyền về một “trật tự mới”, về kế hoạch của
Hitler tổ chức lại xã hội Đức và một phần của châu Âu. Chính phủ Quốc Xã
cũng đề cao niềm hãnh diện quốc gia, việc huấn luyện quân sự , việc tái
võ trang nước Đức và cách phát triển kỹ nghệ. Cũng vào thời gian này,
các người Do Thái bị đẩy ra khỏi các công sở, trường học, đại học và các
chức vụ điều hành. Hàng ngàn người loại này đã rời bỏ nước Đức, một số
lớn khác bị gửi đi các trại tập trung cùng với hàng trăm ngàn những
người bị nghi ngờ chống đối chính trị. Mỗi người dân trong xứ phải có
giấy phép mới được làm việc hay thay đổi công việc làm, di chuyển hay ra
nước ngoài. Chính phủ Quốc Xã cũng quản lý chặt chẽ lương bổng, nhà ở và
thực phẩm. Các công nhân và chủ nhân phải thuộc về Mặt Trận Lao Động Đức
(the German Labor Front) và mặt trận này cũng quản lý mọi sản phẩm, giờ
làm việc, lương bổng và các hoạt động giải trí.
Hitler cũng cho thiết lập các đoàn thể thiếu nhi và thanh niên Đức. Đoàn
thanh niên Hitler (Hitler Youth) thâu nhận các em trai từ 14 tuổi trở
lên và Xã Hội Thiếu Nữ Đức (the Society of German Maidens) bao gồm các
em gái có cùng giới hạn tuổi. Mục đích của các tổ chức này là huấn luyện
cho giới trẻ Đức kỷ luật quân đội và lòng tuyệt đối trung thành với Lãnh
Tụ Quốc Xã. Họ được mặc đồng phục, đi đều bước trong đội ngũ, thao dượt
và học tập các giáo điều Quốc Xã. Đảng Quốc Xã cũng dạy cho trẻ em phải
do thám gia đình và quần chúng và báo cáo cho Đảng các chống đối mà
chúng nghe thấy.
Từ nay, hệ thống cảnh sát và mật vụ Quốc Xã Đức đã nhốt giữ toàn thể dân
chúng Đức trong một bầu không khí đe dọa, khủng bố. Dân chúng chỉ được
nghe các bài diễn văn hùng hồn và hứa hẹn của Hitler.
Vào tháng 8 năm 1934, Thống Chế Hindenburg qua đời. Adolf Hitler nắm trọn
quyền cai trị nước Đức và lãnh hai chức vụ, vừa là Chưởng Ấn, vừa là
Lãnh Tụ (Fuhrer).
Phụ lục:
- Có thể Hitler đã không tự sát
- Những bức ảnh chưa từng công bố về Hitler
- Bệnh Parkinson đã góp phần đánh bại Hitler
Có thể Hitler đã không tự sát
Một nghiên cứu cho thấy rất có thể quốc trưởng Đức
không tự bắn vào đầu trong ngày 30/4/1945 và không chết trong hầm
ngầm tại Berlin.
|
Hộp sọ có vết thủng của đạn được cho là của
trùm phát xít Adolf Hitler. Ảnh:
Reuters. |
Từ trước tới nay giới khoa học và sử học luôn
cho rằng Adolf Hitler đã tự sát trong hầm ngầm Fuhrer tại Berlin
bằng súng lục sau khi uống một viên xyanua vào ngày 30/4/1945 để
khỏi bị rơi vào tay Hồng quân Liên Xô. Eva Braun, cô vợ mới cưới
của trùm phát xít, cũng chết cùng ông ta. Sau đó xác của hai người
được hỏa thiêu bằng xăng trong một vườn gần đó.
Theo AP, vài tháng
sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, cơ quan tình báo Liên Xô đã
thu thập những đồ vật thuộc về Hitler, trong đó có mảnh xương sọ
với một lỗ thủng do đạn xuyên qua ở bên ngoài hầm ngầm Fuhrer. Bộ
sưu tập đó hiện được bảo quản tại Cục lưu trữ quốc gia Nga. Trong
bộ sưu tập còn có những mảnh ghế sofa dính máu. Theo lời kể của
nhiều nhân chứng thì Hitler đã tự bắn vào đầu bằng súng lục trên
chiếc ghế sofa đó. Những kỷ vật của trùm phát xít được trưng bày
trước công chúng vào năm 2000.
Mặc dù một số sử gia nghi rằng chuyện Hitler tự
sát chỉ là kịch bản do bộ máy tuyên truyền của phát xít Đức để
biến ông ta thành anh hùng. Tuy nhiên, mối nghi ngờ của họ dường
như lắng xuống khi hộp sọ có lỗ thủng của đạn được trưng bày.
Kênh truyền hình quốc tế
History (trụ sở tại Canada) muốn sản
xuất một phim tài liệu về cái chết của Hitler để phát sóng vào
tháng này. Họ thuê Nick Bellantoni, một nhà khảo cổ của Đại học
Connecticut (Mỹ) kiểm tra mảnh sọ và những vết máu.
Nhận được sự cho phép của chính phủ Nga,
Bellantoni bay tới Matxcơva để kiểm tra mảnh sọ và những vết máu.
Ông nói rằng kết quả kiểm tra sơ bộ cho thấy mảnh sọ không phù hợp
với Hitler.
“Mảnh sọ rất nhỏ và mỏng, trong khi xương sọ nam
giới to và dày hơn nhiều. Tôi nghĩ nó có thể thuộc về một phụ nữ
hoặc nam giới trẻ hơn Hitler”, ông nói.
|
Hitler và Eva Braun. Người phụ nữ này chết
khi mới 33 tuổi. Mảnh xương sọ có lỗ thủng thuộc về một phụ nữ
dưới 40 tuổi. Ảnh: AP. |
Bellantoni đem nhiều mảnh vỡ nhỏ của hộp sọ và
các vết máu về Đại học Connecticut để phân tích. Ông nhờ Linda
Strausbaugh, một giáo sư sinh học phân tử và tế bào của trường lấy
đủ ADN từ những mẩu xương sọ để phân tích. Bà kết luận rằng đó là
ADN của một phụ nữ từ 20 tới 40 tuổi. Mảnh xương có thể là của Eva
Braun. Nhưng để xác minh điều đó, các nhà nghiên cứu cần mẫu ADN
của người phụ nữ này.
Các nhân chứng có mặt trong hầm ngầm Fuhrer vào
ngày 30/4/1945 chưa bao giờ nói Eva Braun bị bắn vào đầu. Họ nghĩ
cô chết vì uống thuốc độc xyanua.
“Người này, với một lỗ đạn xuyên từ trước ra
sau, có thể đã bị bắn vào miệng hoặc dưới cằm”, Bellantoni nói.
Strausbaugh cho biết, ADN trong các vệt máu trên
ghế sofa thuộc về đàn ông.
“ADN gần như bị phân hủy hoàn toàn nên chúng tôi
không thể xác định chính xác đó có phải là ADN của Hitler hay
không”, Bellantoni thừa nhận.
Các quan chức Nga nói rằng thi thể của Hitler và
Braun được tìm thấy dưới một hố bom bên ngoài hầm ngầm tại Berlin.
Các nhân chứng cũng kể rằng thi thể của Hitler và Braun được cuốn
vào các tấm chăn và ném xuống một hố bom. Người ta tưới xăng lên
hai cái xác và đốt.
Một cuộc khám nghiệm cho thấy tử thi của Hitler
mất một phần hộp sọ. Một nhóm người của Liên Xô quay trở lại hố
bom vào năm 1946 và tìm thấy mảnh xương sọ mà các nhà khoa học Mỹ
đang nghiên cứu.
Theo giới chức Nga thì phần còn lại của thi thể
Hitler được chôn bên dưới một thao trường của Hồng quân Liên Xô ở
thành phố Magdeburg thuộc Đông Đức cũ. Họ nói rằng thi thể được
khai quật vào năm 1970 để hỏa táng. Người ta ném tro cốt vào hệ
thống thoát nước của thành phố.
Những bức ảnh chưa từng công bố về Hitler
Một bộ các tấm hình ghi lại cuộc sống riêng tư của
độc tài phát xít khét tiếng Adolf Hitler lần đầu tiên được công bố.
Những bức ảnh màu đến từ bộ sưu tập của Hugo
Jaeger, phóng viên ảnh riêng của Hiler. Ông đã chụp cho thủ lĩnh
đảng Quốc xã Đức từ năm 1936 đến những ngày cuối cùng Hitler cầm
quyền năm 1945.
Jaeger giấu hàng nghìn bức ảnh trong một valy da
vào cuối cuộc chiến tranh. Chiếc valy này đã được các lính Mỹ tìm
thấy khi họ lục soát ngôi nhà ở Munich nơi Jaeger từng ở.
Phần 1: Các hoạt động quân sự của Hitler
|
Hitler giơ tay chào quân đội Đức trong cuộc
duyệt binh vào ngày 1/9/1938. "Điều tiên quyết dẫn đến thành
công là sự áp dụng không ngừng và liên tục bạo lực", Hitler
từng nói. |
|
Thủ tướng Anh Neville Chamberlain (hàng đầu,
thứ 2 bên tay phải) duyệt đội quân danh dự của phát xít Đức
trước khi đến gặp Adolf Hitler vào ngày 28/9/1938. |
|
Hitler phát biểu tại Munich, Đức, ngày
8/11/1938, trong lễ kỷ niệm lần thứ 15 sự kiện Beer Hall
Putsch, trong đó Hitler và các thành viên đảng Quốc xã đã tìm
cách lật đổ chính quyền Đức nhưng không thành. |
|
Hitler tham quan cuộc triển lãm Ôtô quốc tế
tại Berlin, ngày 17/2/1939. |
|
Julius Schaub, trợ thủ thân tín của Hitler,
quan sát những người xung quanh tại một bữa tiệc vào ngày
25/2/1939. |
|
Hitler tham dự cuộc hạ thủy tàu chiến
Tirpitz ngày 1/4/1939. |
|
Hitler và các quan chức đảng Quốc xã tham dự
bữa tiệc Giáng sinh năm 1941, lúc đỉnh điểm của Chiến tranh
thế giới lần thứ 2. |
|
Hitler trò chuyện với các cô gái trẻ trên
chiếc tàu Robert Ley của Đức trong ngày khởi hành đầu tiên của
con tàu, hôm 1/4/1939. Tên tàu được lấy từ một thủ lĩnh cấp
cao trong quân đội phát xít. |
|
Phòng khám bệnh trên tàu Robert Ley - một
trong những tàu đầu tiên được chế tạo phục vụ riêng mục đích
du ngoạn cho quân đội Đức. |
Bệnh Parkinson đã góp phần đánh bại Hitler
|
Trùm phát xít Hitler (20/4/1889 -
30/4/1945). |
Theo nghiên cứu của một chuyên gia về bệnh thần kinh thuộc
Đại học Dekalb (Mỹ), do mắc bệnh Parkinson nên về sau tư duy của Hitler
trở nên chậm chạp, không thể đưa ra những phán đoán kịp thời chính xác.
Căn bệnh này là một trong những nguyên nhân thúc đẩy nhanh sự sụp đổ của
trùm phát xít.
Nghiên cứu trên được trình bày tại hội nghị Trao đổi học
thuật quốc tế về bệnh Parkinson năm 2000. Theo đó, Hitler mắc bệnh
Parkinson từ năm 1934, triệu chứng lúc đó là chân tay run rẩy và cử động
chậm chạp. Cho rằng có thể dùng thuốc để che giấu được bệnh trạng,
Hitler đã cùng một số trợ thủ thân tín tìm cách bịt kín việc này. Tuy
vậy, căn bệnh ngày một phát triển nặng hơn.
Đến năm 1945, bệnh của Hitler đã bước vào thời kỳ cuối
với các triệu chứng: tư duy trì trệ, phản ứng chậm chạp, khó ngủ.... Mỗi
khi bị kích động, bệnh càng nặng hơn. Lúc này, thuốc uống hầu như không
còn tác dụng. Hitler không còn đủ sức xử lý những tình huống phức tạp,
và rất ít khi công khai xuất hiện.
Bệnh Parkinson
Đây là một loại bệnh hệ thống thần kinh mạn tính, thường
thấy ở lớp người trung niên và già. Nguyên nhân gây bệnh đến nay vẫn
chưa được làm rõ. Theo nhiều nghiên cứu, bệnh có thể liên quan tới tình
trạng trúng độc, viêm não, xơ cứng động mạch, chấn thương... hoặc có yếu
tố di truyền.
Biểu hiện chủ yếu của Parkinson là: Chân tay rung động
một cách không tự chủ, cơ bắp bị cứng hóa, hành động chậm chạp... Những
trạng thái trên có thể tồn tại đơn độc hoặc đồng thời xuất hiện. Vào
thời kỳ cuối, thân thể người bệnh hoàn toàn cứng nhắc. Họ không đứng dậy
nổi, sức khỏe ngày một suy giảm.
Tác dụng của thuốc đối với phần lớn người
mắc bệnh ở thời kỳ cuối là rất hạn chế, kể cả trường hợp tăng liều. Khi
dùng thuốc lâu dài, người bệnh thường gặp những tác dụng phụ nghiêm
trọng. Do mắc bệnh này nên ở thời kỳ cuối, Hitler đã thua nhiều trận và
phải tự sát vì tuyệt vọng.
Sức Khỏe & Đời Sống (theo tạp chí
Y học đại chúng
- TQ)
Lần đầu: 22/08/2008
Cập nhật 15/10/2009
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org Phạm Văn Tuấn
|