Những bài cùng tác giả
Xin đọc thêm:
Tại sao Hồng Y Francis Spellman Muốn Dội Bom Nguyên Tử Xuống Việt
Nam?
Hồng Y
Francis Spellman Và
Chiến Tranh Việt Nam
“Soldiers Never
Lose/Lính Chiến Không Bao Giờ Thua…”
Người dân Mỹ
biết tại sao họ tham chiến ở Pearl Harbor năm 1941, ở Triều
Tiên năm 1950.
Nhưng hình như
họ không hiểu tại sao xứ họ lún vào “vũng lầy” chiến tranh
Việt Nam từ 1954 đến 1975. Từ chiến trường Việt Nam xa xôi,
quan tài liên tiếp trở về. Khi nốt nhạc chiêu hồn còn đang
lơ lửng, bên nấm mồ phủ hoa và lá cờ đầy kịch tính, gia đình
tử sĩ giật mình “Sự thật ở đâu? Người anh hùng không toàn
thây kia nằm xuống cho ai?” Tướng McArthur nói “Old soldiers
never die; they just fade away/Người lính già không chết; họ
chỉ nhạt dần đi”. Có lẽ phải thêm “Soldiers never lose, but
are betrayed/ Người lính không bao giờ thua trận/họ chỉ bị
phản bội”.
Cựu quân nhân
Việt Mỹ giống nhau một điểm: ồn ào nhận thua trận mà quên
rằng:
Chỉ cấp lãnh
đạo mới thua trận!
Chỉ cấp lãnh
đạo mới phản bội!
Nhưng cấp
lãnh đạo chiến tranh Việt Nam là ai?
Lúc người dân
Mỹ khám phá ra rằng khi chấp nhận chiến tranh thì phải chấp
nhận hy sinh nhưng Hồng Y Spellman chỉ muốn ngườì “hy sinh’
cho ngài, họ bắt đầu biểu tình trước nhà thờ St. Patrick và
tư dinh của ngài ở New York. Lần đầu tiên tên một hồng y
được đặt tên cho cuộc chiến, “Spellman’s War.”
Những bài viết cay đắng về ngài khá nhiều. Có một điều người
dân Mỹ “cay đắng” về cuộc chiến Việt Nam: đang từ một dân
tộc anh hùng kiểu “vì dân diệt bạo”, họ trỏ thành hiếu chiến
hiếu sát, trong khi đó, Vatican được tiếng là rao giảng hoà
bình. Ý kiến của một cựu chiến binh “Hơn 58,000 lính Mỹ
không biết rằng
họ chết ở Việt Nam cho
Giáo Hội Ki-tô. Không đi lính, thì
đi tù 5 năm. Biết vậy, tôi không đăng lính năm 1968. Tôi sẽ
đi biểu tình chống chiến tranh và ngồi tù trong danh dự để
thách đố nhũng láo khoét của chính phủ về tình hình VN.”
Điều đau của
quân nhân Mỹ-Việt, từ tướng cho đến quân trong cuộc chiến
Việt Nam: đào ngũ thì bị tù, muốn đánh cũng không đuợc, muốn
thua cũng không xong, muốn thắng lại càng khó! Chết uổng
đời, sống bị phỉ nhổ! Khi siêu quyền lực muốn kéo dài chiến
tranh để tiêu thụ võ khí, thì xác người chỉ là con số, Việt
Nam là nấm mồ, chôn ai không cần biết.
Trong 28 năm làm
hồng y, hồng y Spellman trực tiếp can dự vào cuộc chiến Việt
Nam suốt 13 năm - từ 1954 đến 1967. Tuy có tới hơn ba triệu
Người Việt-Mỹ chết “Cho Ngài, Do Ngài và Vì Ngài”,
mặc dù tên tuổi của ngài hình như còn rất xa lạ với người
mình, ngoại trừ một số du học sinh ở Úc, Mỹ… những năm 1960,
bật TV lên là thấy ngài.
![](images/spellman09.jpg)
Hồng Y Francis Spellman
là ai?
Truyền thông nước
ngoài ghi chép đầy đủ cuộc đời và sự nghiệp hồng y Spellman
(1889-1967). Đọc những tác giả độc lập này khá yên tâm, vì
họ chỉ muốn tìm ra “sự thật”, tìm ra "mục tiêu tối thượng”
của sự việc. Họ không tìm cách
bào chữa/tâng
bốc/đạp đổ nhân vật, mà chỉ
phân tích
mục tiêu cho
cho ra lẽ.
Tác giả Avro Manhatttan còn cẩn thận viết “Đề cập đến
“giáo hội Ki-Tô”cuốn sách của tôi không nhắm đến những tín
đồ thuần thành, không biết chút xíu gì về những âm mưu toan
tính nói trên, chỉ nói đến giới lãnh đạo cao cấp ở Vatican
và những tu sĩ Dòng Tên”
Bài viết này
chỉ nhặt những chi tiết về hồng y Spellman có liên quan xa
gần tới chiến tranh Việt Nam, còn những sự việc khác như
ngài là người đồng tính (homosexual), vô địch xây trường
học, thành công vượt bực trong kinh doanh “Knights of
Malta”, thiết lập Ratlines giúp đám Nazis Đức Quốc Xã chạy
trốn, thành tích quậy phá các xứ Trung Mỹ…không liên quan gì
đến vận mệnh ngườì Việt cả.
Đường hoạn lộ của ngài thẳng băng như một cây thước kẻ:
1. Về tôn giáo:
Năm 1911, chủng
sinh Spellman/dòng
Jesuits , 22 tuổi tu học ở Rome được hân
hạnh kết bạn rất thân với Hồng Y Eugenio Pacelli. Hồng y gọi
yêu cậu là “Frank hay Franny”. Trong 7 năm, hồng y Pacelli
đi khắp thế giới đều mang Frank theo, từ leo núi Alpes đến
bãi biển Hy Lạp. Tháng 7-1932, Frank được phong làm giám mục
giáo phận Boston, thủ đô tiểu bang Massachssetts.
Chính hồng y Pacelli, lúc đó là bộ trưởng
ngoại giao, tấn phong cho Frank trong một buổi lễ trọng thể
cử hành ở đền thờ Thánh Phêrô/St. Peter’s Basilica ở
Vatican, Frank mặc aó lễ màu vàng chói mà hồng y Pacelli mặc
năm xưa. Lần đầu tiên một giám mục Hoa Kỳ được hân hạnh này,
giáo dân Boston nở nang mặt mũi.
Tháng 3-1939,
hồng y Pacelli được bầu làm gíao hòang Pius XII. Đúng tám
tuần lễ sau, giáo hoàng Pius XII phong cho Spellman làm tổng
giám mục New York, giáo phận giầu có nhất Hoa Kỳ. 20 năm
sau, hồng y Spellman biến New York thành giáo phận giầu nhất
thế gìới. Cùng năm 1939, Spellman đuợc phong chức tổng
tuyên úy quân đội: cái vé tối danh dự đặt giám mục
Spellman trên đỉnh mạng lưới siêu quyền lực gồm siêu quí
tộc/tài phiệt/chính trị/tình báo/quân sự
liên quốc gia
có tên Sovereign Military Order of Malta, viết tắt SMOM, hội
viên phải được giáo hoàng sắc phong. Nội cái tên không
thôi đã nói lên mục đích của SMOM.
Năm 1946, giáo
hoàng Pius XII phong Spellman chức hồng y. Không cần mọc
cánh, ngài trở thành “thiên thần” giữa Vatican và bộ ngọai
giao Mỹ. Ở Mỹ, người ta linh đình chúc tụng ngài là American
Pope/Giáo Hoàng Hoa Kỳ.
Ở Vatican, Người
ta gọi ngài là Cardinal Moneybags/Hồng Y Túi Tiền. Ngôi
thánh đường Patrick ngài ngự đuợc gọị chệch đi là “Come-on-wealth
Avenue/Đại lộ Của Cải Nhào Vô” (thay vì “Commonwealth”),
trở thành thời thượng. Ngài làm lễ cưới cho Edward Kennedy ở
đó.
2. Quyền lực:
![](images/spellman10.jpg)
Đóng góp tài chánh của hồng y Spellman cho Vatican, tình bạn với
Giáo hoàng Pius XII, vị trí chót vót trên đỉnh SMOM, quyền
lực Spellman hầu như vô tận không ai dám đụng.
Bạn của ngài
nằm trong danh sách 100 người quan trọng nhất thế kỷ 20.
Ngài giới thiệu với giáo hoàng Pius XII hàng loạt các nhà cự
phú, biến họ thành quí tộc Hiệp sĩ Malta, không ai
dám đụng tới. Hốt tiền chỗ này bỏ chỗ kia khéo léo như một
bà chủ hụi, dưới bàn tay Spellman mọi việc trôi êm. Thay vì
nộp tiền niên liễm của Knights of Malta- Hiệp sĩ Malta
vào tổng hành dinh SMOM ở Rome, Spellman chuyển tiền đó vào
tài khoản riêng của hồng y Nicola Canali (1939-1961) bộ
trưởng bộ ngoại giao Vatican. Vài câu hỏi yếu ớt vang lên,
ngài không bận tâm trả lời. Báo nào xa gần hơi “tiêu cực” về
ngài, ngài cho lệnh các cửa hàng sang trọng khu Sak Fifth
Avenue rút hết qủang cáo liền một khi. Thương xá Sak
Fifth/New York chỉ là một tài sản khiêm nhường của
ngài, cũng như tổng giám mục Ngô Đình Thục là chủ thương xá
Tax/Saigon.
Hồng y
Spellman giúp Vatican 1 triệu đô la tài trợ Công đồng
Vatican II nhưng ngài không hơi sức nào bầu bạn với nhũng kẻ
nghèo khó. Tháng 3/1949, hai trăm phu đào huyệt nghĩa trang
Calgary - rộng 500 mẫu mà ngài là chủ nhân - đòi tăng lương
20% từ 59.40 lên 71.40 $USD (một tuần). Ngài không chấp
nhận, ngài mím môi bắt các chủng sinh nhà thờ St. Patrick
thay thế, đào huyệt chôn 1020 quan tài xếp lớp. Ngài đổ cho
cái đám cùng khổ ấy là bọn… cộng sản. Mấy Người vợ nghèo khổ
của đám phu đào huyệt mếu máo phân trần “Chồng tôi chỉ muốn
tăng lương, không biết cộng sản là gì”.
3. Về chính trị:
Hồng y
Spellman đìều khiển thế giớí bằng điện thoại. Ngài cho hay
trước sẽ không ai viết được tiểu sử ngài, vì sẽ không bao
giờ có dấu vết chứng từ. Ngài là cố vấn của năm đời tổng
thống Mỹ từ 1933 đến 1967, từ Roosevelt, Truman, Eisenhower,
Kennedy đến Johnson. Ngài là bạn thân với tướng William
Donovan - xếp sòng OSS (Office
of Strategic Services), tiền thân CIA (Central
Intelligence Agency). Donovan chỉ định
Allen Dulles nối ngôi CIA, nên hai anh em nhà Dulles, bộ
trưởng ngoại giao và giám đốc CIA, cũng dưới tay ngài.
![Allen Dulles](images/dullesAllen_w.jpg)
Một trong
những người bạn danh giá là đại gia Joseph Kennedy, thân phụ
của thượng nghị sĩ trẻ tuổi John Kennedy/tiểu bang nhà,
Mass. Năm 1935, tài sản ông Kennedy đã lên tới $180 triệu đô
la, khoảng 3 tỷ dollars bây giờ. Sau thế chiến II, một
trong những chiến lược của Vatican trong việc ngăn chặn cộng
sản bằng cách ủng hộ các ứng viên phe Dân Chủ Ki-Tô giáo.
Đang khi Vatican muốn có một tổng thống Ki-tô ở tòa Bạch Ốc,
đúng lúc Joseph Kennedy muốn John Kennedy làm tổng thống.
Giáo hoàng Pius XII gửỉ bác sĩ riêng Riccardo Galeazzi đến
gặp Spellman và Joseph Kennedy để thương lượng. Có tiền mua
chức tổng thống dễ như mua bắp rang.
Những yếu tố
trên chín mùi cùng lúc, Spellman dựa vào Vatican dựng lên
hai tổng thống Ki-tô dân chủ đầu tiên: John F. Kennedy ở
Washington D.C cũng như Ngô Đình Diệm trước đó ở Saigon.
Hồng Y Spellman nhận
ông Ngô Đình Diệm làm con nuôi
Tài liệu ngoại
quốc không có những chi tiết như trong bài viết “Có phải
Hoa Thịnh Đốn Đã Đưa Ông Diệm Về Làm Tổng Thống Đệ Nhất Cộng
Hoà VN” của Linh mục An-Tôn Trần Văn Kiệm. LM là người
duy nhất ở gần ông Ngô Đình Diệm trong hơn hai năm ông Diệm
ở Mỹ, Theo Linh mục, có ba người được hồng y Spellman bảo
trợ, nhận làm con
nuôi: hai linh mục Trần Văn Kiệm-Nguyễn Đức
Quý và ông Ngô Đình Diệm.
Ông Ngô Đình Diệm có tới ba vị “cha nuôi” oai quyền một cõi:
thượng thư Nguyễn Hữu Bài, Hồng y Spellman và trùm CIA Allen
Dulles.
Năm
1951, đang ở New York, Linh mục Trần Văn Kiệm, được điện tín
từ Âu châu ra đón tổng giám mục Ngô Đình Thục và em là Ngô
Đình Diệm tại phi trường Idlewild (phi trường Kennedy bây
giờ). Sau đó Hồng y Spellman gửi ông Diệm trú tại nhà dòng
các linh mục Maryknoll, New Jersey. Tuy đuợc Hồng y Spellman
giầu có bảo trợ, ông Diệm không được Hồng y cho đồng xu nào.
Suốt hai năm, chỉ một mình Linh mục Kiệm thăm viếng, bao
biện việc di chuyển, kể cả thuê khách sạn cho ông tiếp khách
vì biết ông rất thanh bạch. Cho đến tháng 6/1953, ngày ông
từ giã Hoa Kỳ qua Pháp gặp hoàng đế Bảo Đại trước khi về VN
nhận chức thủ tướng, Linh mục M Trần Văn Kiệm và năm Người
bạn còn chạy mua vội cho ông chiếc cà vạt màu xanh.
Tuy vậy, theo
linh mục Trần Văn Kiệm, mãi đến giữa năm 1953, chính giới Mỹ
chẳng biết gì về ông Ngô. LM TVKiệm viết:
-”Có lần
chính khách Mỹ phàn nàn với tôi: linh mục đề cao tư cách
lãnh đạo của ông Ngô Đình Diệm, và cả Đức Cha Ngô Đình Thục
cũng làm như thế, nhưng chúng tôi cần thêm chứng nhân, vì
Đức Cha Thục là anh đề cao em thì có chi là lạ”.
-”Mãi tới gần
một tháng sau khi trận Điện Biên phủ nổ lớn ngày 13 tháng 3
năm 1954 (thất thủ ngày 26 tháng 6)
(1)
và có lẽ cũng vì nghe lời Đức Hồng y Francis Spellman kêu
gọi, ngày mùng 7 tháng tư năm 1954 tổng thống Eisenhower mới
lên tiếng cảnh giác, khi ông xướng lên chủ thuyết Domino:
“Nếu Việt Nam sụp đổ trước sức tấn công Cộng sản quốc tế với
Liên Xô và Trung hoa yểm trợ Hà nội, thì mấy nước ở Đông Nam
Á sẽ khó mà đứng vững được”.
Hồng Y Spellman Dựng
nên Đệ Nhất Cộng Hòa VN
=
Một chân ở điện
Capitol, một chân ở Vatican, hồng y Spellman ảnh hưởng cả
tổng thống Mỹ, sai khiến được trùm CIA, hoạch định chính
sách cho bộ ngoại giao, nên ngài yên chí sẽ được bầu làm
giáo hoàng ở Vatican khi bạn thân ngài là giáo hoàng Pius
XII qua đời. Không ngờ, ngày 28-10-1958, người đựợc bầu là
Hồng Y Angelo Roncalli, tức Giáo hoàng John XXIII. Hồng y
Spellman giận lắm, nhiếc sau lưng ông: “Ông ta đâu xứng làm
Giáo Hòang, Ổng đáng đi bán chuối/He’s no Pope.
He
should be selling bananas ”.
Hồng y
Spellman có vẻ như lập lại câu nói của Cesar “Veni,
Vidi, Vici” (Tôi đã đến, tôi đã thấy, tôi đã thắng).
Những năm 1950, chính khách Mỹ nói về châu Á còn lọng cọng
giở bản đồ, Spellman đã đi qua cả rồi. Năm 1948, ngài đỡ đầu
cho linh mục Fulton Green qua Australia đọc diễn văn tại nhà
thờ St. Mary’s ở Sydney. Spellman ghé Singapore và Bangkok,
bay ngang Angkor Wat. Trên đường trở về Mỹ, trứơc khi bay
qua Canton và Hongkong, ngài tiện chân ghé Saigon. Tổng giám
mục Saigon người Pháp Jean Cassaigne có mời tổng giám mục
Vĩnh-Long Ngô Đình Thục trong buổi tiếp đón ngày 25-5-1948:
từ buổi “tiện chân” định mệnh này, số phận của dòng họ
Ngô-Đình đã an bài.
Giới học
thuật Mỹ - tôn giáo, chính trị, truyền thông, giáo dục -
đồng ý dứt khóat 100% về vai trò của Hồng Y Spellman trong
việc dựng lên tổng thống Ngô Đình Diệm. Xin chỉ giới hạn vào
bốn tác giả mà sách của họ đã được thử thách với thờì gian.
Trong số bốn người này, hai là linh mục Ki-tô giáo:
- Theo
Wilson D
Miscamlble, giáo sư môn sử/đại học Notre
Dame/Indiana, trong bài viết “Francis Cardinal Spellman
and Spellman’s War”, lý do người Mỹ nhúng tay vào chiến
tranh VN bắt nguồn từ ChiếnTranh Lạnh kéo dài từ châu Âu.
Dưới ảnh hưởng vô
cùng to lớn của Spellman, chính giới Mỹ đều
tin tưởng rằng sự bành trướng của khối Cộng Sản Liên Sô và
đồng minh của họ, Bắc VN, là mối đe dọa trực tiếp nước Mỹ.
- “The
American Pope: The Life and Times of Francis Cardinal
Spellman”, tác giả
John Cooney
(cây bút của Wall Street Journal) viết: “Nếu
không có Spellman ủng hộ Ngô ĐìnhDiệm hồi 1950, chắc chắn
không có chính phủ miền Nam Việt Nam.”
Cooney dành 18 trang riêng về Spellman và Việt Nam. Tờ
Church & State phê bình “dẫn chứng kỹ càng, tất cả người Mỹ
nên đọc và học hỏi”
- “An
American Requiem/Kinh Cầu Hồn Nước Mỹ”, tự truyện, tác
giả James Carroll
có bố là trung tá tình báo Pentagon: chuyên viên tìm toạ độ
để ném bom ở Việt Nam, mẹ lại là bạn thân của hồng y
Spellman. Ông viết “Chiến tranh VN bắt đầu từ Spellman”,
sách-bán-chạy nhất 1960-70, đoạt National Book Award for
Non-Fiction (1996), giải thưởng cao quí nhất của văn học Mỹ.
Carroll dành nguyên chương 8, “Holy War/Cuộc Chiến Thần
Thánh” cho chiến tranh Việt Nam.
- Theo linh
mục Martin Malachi:
Spellman dấn thân vào Việt Nam là theo
ý muốn của Giáo Hoàng Pius
XII: muốn người Mỹ đưa ông Ngô Đình Diệm lên
vì ảnh hưởng của tổng giám mục Ngô Đình Thục.
(Ghi chú:
Linh mục Malachi, giáo sư Giáo hoàng Học Viện Vatican
(Pontifical Biblical Institute) từ 1958 đến 1964, cùng thờì
điểm chìến tranh Việt Nam. Ông là phụ tá, thư ký riêng,
thông dịch viên cho hồng y Augustin Bea/dòng Jesuits và cho
Giáo hoàng John XXIII. Ông ở cùng dinh vơí giáo hoàng John
XXIII, được giao phó nhiều việc “nhậy cảm”. Là linh mục
dòng Jesuits trong 25 năm, năm 1965 ông xin chấm
dứt ơn kêu goị, nghiã là ra khỏi dòng Jesuits. Ông qua New
York, sống lang thang làm bồi bàn, tài xế taxi, rửa chén.
Hai năm sau ông bắt đầu kiếm ăn bằng viết sách. Cuốn nổi
tiếng nhất: “The Jesuits: The Society of Jesus and the
Betrayal of the Roman Catholic Church/ Dòng Jesuits và Sự Phản Bội Của Giáo Hội La Mã”).
(Cả ba cuốn
The American Pope, An American Requiem, The Jesuits đều có
trên amazon.com.)
Có thể tóm tắt:
được các nhân vật tối cao của
lập pháp, tư pháp, tình
báo, tài phiệt và tôn giáo Hoa Kỳ đã nâng đỡ con đường hoạn
lộ của ông quan Á Châu Ngô Đình Diệm giống
như truyện cổ tích Cô Bé Lọ Lem, ngọai trừ đoạn cuối.
1. 1951:
tại New York, Hồng Y Spellman giới thiệu ông quan-tự lưu
vong-Ngô Đình Diệm với chính giới Mỹ, gồm thượng nghị sĩ
Michael Mansfield, thẩm phán tối cao pháp viện William O.
Douglas, trùm CIA Allen Dulles, cha con Joseph Kennedy, tất
cả là tín đồ công giáo.
2. 1954:
CIA gửi Edward Landsdale qua Saigon hóa phép “trưng cầu dân
ý” truất phế Baỏ Đại-ủng hộ thủ tứơng NĐDiệm. Landsdale đề
nghị tỷ lệ đắc cử là 70%, ông Diệm không đồng ý, đòi phải
đạt được 92.2%, con số cao hơn cả số cử tri ghi danh.
![](images/spellman07.jpg)
Landsdale và Ngô Đình Diệm
http://www.historynet.com/ed-lansdales-black-warfare-in-1950s-vietnam.htm
3. 1955:
Bộ Ngoại Giao gửi đoàn cố vấn dân sự qua Saigon (giáo sư
Wesley Fishel/đại học Michigan cầm đầu) soạn cấu trúc cho an
ninh, kinh tế, giáo dục, hành chánh,
soạn cả hiến pháp cho Việt
Nam Cộng Hòa.
Cơ quan USAID/Sở
Thông tin Hoa Kỳ phát không tờ Thế Giới Tự Do, lò
sản xuất những khẩu hiệu như “tiền đồn chống cộng, lý tưởng
tự do, Người quốc gia…”. USAID cũng bao dàn trọn gói luôn tờ
The Times bằng tiếng Anh của ông Ngô Đình Nhu.
4. 1955:
chính phủ Eisenhower tài trợ 20 triệu đô la cho quĩ [Roman]
Catholic Relief Services , “Cơ Quan Viện Trợ Công
Giáo”. Hồng y Spellman cũng đích thân viếng Saigon và tặng
$100,000 cho quỹ này, giúp tái định cư người di cư (có tài
liệu ghi $10,000). Từ đó mỗi năm, Hoa Kỳ viện trợ khoảng 500
triệu đô la một năm cho Việt Nam Cọng Hòa.
5.
Ngoài cố vấn Mỹ chính thức tạị dinh Độc Lập, Spellman còn
gàì điệp viên kiểm soát hai anh em ông Diệm-Nhu.
6.
Từ đầu năm 1963, Spellman bắt đầu tách rời khỏi Ngô Đình
Diệm khi chính phủ Diệm từ chối không cho
thêm quân
nhân Hoa Kỳ vào Việt Nam.
7.
Ngày 7-9-1963 tổng giám mục Ngô Đình Thục rời Việt Nam qua
Roma, bước lưu vong đầu tiên, không được giáo hoàng Paul VI
tiếp. Ngày 11-9-1963 Ngô Đình Thục bay qua New York cầu
cứu, hồng y Spellman lánh mặt đi Miami Beach/Florida dự lễ
gắn huy chưong.
8.
Ngày 1-11-1963: Spellman bật đèn xanh cho âm mưu dứt điểm
con nuôi Ngô Đình Diệm. Từ đó, Spellman không hề nhắc đến
tên Thục-Diệm thêm một lần nào nữa.
9.
Spellman tiếp tục đìều khiển guồng máy chiến tranh Việt Nam
không-Diệm cho đến khi về hưởng nhan thánh Chuá năm 1967.
Hồng Y hay
đại tướng?
Đáng lẽ Hồng
y Spellman phải theo nghiệp binh đao. Năm 1943, chỉ trong
bốn tháng, ngài vượt 15,000 miles, đến 16 quốc gia vừa là
đại diện của Vatican, vừa là tổng tuyên uý quân đội, vừa là
đặc sứ của tổng thống Roosevelt. Ngài khéo léo luôn để
Vatican đứng ngoài, và đứng trên chìến tranh. Ngài đuợc West
Point trao tặng huy chương. Ngàì có bằng lái máy bay cả ở
Italy lẫn Massachussets.
Fidel Castro
mô tả hồng y Spellman là “Giám mục của Ngũ Giác Đài, của CIA
và FBI”. Tổng thống Mỹ còn sợ bị ám sát, Spellman thì không.
Trong cuốn “Vietnam… Why Did We Go? "Vì Sao Chúng
Ta Đã Đi Việt Nam” tác giả Avro Manhattan chứng minh “siêu
quyền lực” giết tổng thống John Kennedy chính là Hồng y
Spellman. Bản dịch tiếng Việt, có trên internet, dịch giả
Trần Thanh Lưu.
![](images/spellman08.jpg)
Hậu thuẫn lớn
của hồng y Spellman cho chính quyền Lyndon Johnson không
phải ở châu Mỹ La Tinh, mà ở Việt Nam.
Dù ở tuổi nào ngài cũng thich làm “anh là lính đa tình”.
Ngài thường xuyên gặp gỡ các ông tướng ở tòa Bạch Ốc, có mặt
tại những phiên họp mật của tình báo. Ngài họp với Ngũ Giác
Đài, bàn cãi chiến thuật/chiến lược với hàng tướng lãnh.
Phiên họp cuối ngài tham dự, tháng 3/1965, tại Carlisle một
trường huấn luyện quân sự ở Pensylvania. Ngài cho tiền các
giáo hội địa phương, nguồn cung cấp tin tức vô tận. Khi cần
ngài hỗ trợ cho CIA và FBI khiến hai cơ quan này khép nép
dưới chân ngài. Họ không sao có được mạng lướí rộng lớn,
miễn phí và trung thành như giáo dân. Trong khi hồng y
Spellman chỉ phán một câu, các giáo hội địa phương xa xôi
nghèo nàn mừng mừng tủi tủi, vứt cả tổ tiên ứng hầu thánh ý.
Linh mục William F. Powers viết “Hình như
Hồng Y Spellman đến Việt
Nam để ban phép lành cho những khẩu đại bác,
trong khi giáo hoàng John XXIII đang năn nỉ phải cất chúng
đi. Ngài sang thăm lính Mỹ
ở Việt Nam trong binh phục kaki vàng. Có lần, vừa trở về từ
mặt trận VN, “áo anh mùi thuốc súng” ngài lập tức bay đến
Washington dùng cơm trưa với tổng thống Johnson, có cả mục
sư Billy Graham (đuợc coi như Giáo hoàng Tin Lành ở Mỹ).
Tổng thống hỏi ý cả hai ngài bước kế tiếp phải làm gì. Trong
khi mục sư Graham còn đang lúng túng giữ yên lặng, HY
Spellman không ngần ngại, nói liền một câu lạnh cẳng
“Thả bom
chúng! Chỉ việc thả bom chúng!”
Và Johnson đã làm theo lời cố vấn của ngài. [Thus, when
Johnson asked both Spellman and Billy Graham at a luncheon
what he should do next in Vietnam, Graham was uncomfortably
silent. “Bomb them!” Spellman unhesitatingly ordered. “Just
bomb them!”’ And Johnson did]. Chúng là ai?
Là người Việt.
Chưa được đọc bài nào của tác giả Việt về câu nói kinh hãi
này. Chỉ mới thấy tác giả Nguyễn Tiến Hưng giận dữ về câu
“Sao chúng nó không chết phứt đi cho rồi” của ông Henry
Kissinger.
Billy Graham
(1918-) đâu phải tay mơ. Ông được coi như “giáo hoàng Tin
Lành,” cố vấn các tổng thống Mỹ từ đời Eisenhower đến G.
Bush. Ông rất oai, quở trách tổng thống Richard Nixon như
con cái trong nhà. Có lẽ thấy Spellman ngon lành quá, Graham
bắt chước y chang khiến ông cũng rất nổi tiếng trong quân sử
Hoa kỳ với lá thơ 13 trang: Năm 1969 Graham đến Bangkok gặp
gỡ vài “nhà truyền giáo” từ VN qua. Các đại diện Chúa sau
khi làm dấu thánh giá, đề nghị nếu hội nghị hoà bình Paris
thất bại, Nixon nên dội bom các đê điều ở Bắc Việt. Không
rõ các nhà truyền giáo này kiêm điệp viên hay điệp viên kiêm
nhà truyền giáo, họ là người Việt hay người ngoại quốc,
thuộc dòng nào, từ đâu qua Bangkok gặp Graham… rất tiếc bản
tin không nói rõ. Trở về Mỹ, Billy hăng hái gửi 13 trang
viết tay đề ngày 15-4-1969 cho tổng thống Nixon “dội bom
các đê Bắc Việt Nam, chỉ trong một đêm thì kinh tế ở đó tiêu
đìều liền hà”. Bức thư này đuơc bạch hóa tháng 4/1989.
Tạ ơn Chúa,
Alleluia!! “Dội bom đê điều” giết cả triệu dân là tội ác
chiến tranh! Người Mỹ phải hành quân đáng mặt nước lớn. Họ
không quên án lệ Arthur Seyss-Inquart, luật sư ngườì Đức, sĩ
quan Phát xít của Hitler. Ngày 16-10-1946, toà án quốc tế
xử treo cổ ông này và 10 người khác vì phá hủy đê ở Hoà Lan
trong thế chiến II. Trước khi chết, Seyss-Inquart còn nói
kiểu sân khấu: “Hy vọng cuộc hành hình này là thảm kịch cuối
cùng của thế chiến II mà bài học sẽ là hoà bình và hiểu biết
giữa con người.” Tử tội xin “trở lại đạo”, đuợc xưng tội và
chiụ đủ các phép bí tích. Kể cũng hay, giết người xong xưng
tội là linh mục tha tội ngay, Chúa có tha không sẽ tính sau.
Có hơi thắc mắc không biết ông có tái sinh làm Ki-tô hữu
chưa.
Wilson D.
Miscamble kết luận về “sự nghiệp” của hồng y Spellman như
sau:
Lòng ái
quốc mù quáng đã ngăn cản ông tự hỏi một điều rất quan trọng
“mục đích của chiến tranh là
gì?” Ông cũng
không thèm biết đến “phương tiện và hậu qủa”.
Ông không
hề biết rằng những báo cáo của chính phủ về Việt Nam là lừa
gạt.
Ông không
bao giờ biết đến nhân mạng và tiền bạc trả cho cuộc chiến
tính đến 1967.
Ông cũng
không bao giờ phản đối cách nước Mỹ tiến hành cuộc chiến.
Ngược lại ông là người cổ võ việc ném bom Bắc Việt Nam.
Cuối
cùng, ông không bao giờ tỏ ý hối tiếc về vai trò của ông. Sự
thiệt hại nhân mạng do việc dội bom cũng không hề dấy lên
trong ông bất cứ một tình cảm nào. Đó là điều đáng trách
nhất, vì ông là một đấng chủ chăn.
Theo nhà
tranh đấu Lê Thị Công Nhân:
“Sự kiện
30-4-75 thì tôi không phải là chứng nhân của sự kiện đó vì
tôi sinh ra vào năm 1979 nhưng với những gì mà tôi trực tiếp
trải qua, và tôi chịu đựng trên đất nước Việt Nam, tôi thấy
đây là 1 sự kiện hết sức đặc biệt và cá nhân tôi nghĩ rằng
đây là sự an bài nghiệt ngã của
Đức Chúa Trời dành cho dân tộc Việt Nam”.
Cứ dâng vạn
nỗi đau thương lên cho Chúa, người cũng sẽ im lặng như ngàn
năm nay, như khi dân Do Thái của Chúa bị tận diệt. Đổ cho
Chúa, Việt Cộng mừng vì “Chúa an bài như thế, khỏi tranh
đấu nữa”. Hồng y Spellman mừng, Cộng sản quốc tế mừng,
tư bản mừng! Cứ làm đi rồi đổ hô cho Chúa. Nhưng một khi bom
đạn và tổn thất sinh mạng cân đong đo đếm được thì nguyên
nhân/thủ phạm cần phải được xem xét kỹ lưỡng. Dù không làm
kẻ chết sống lại, người mù sáng mắt, nhưng ít ra học được vô
số bài học. Nếu không, chắc chắn quá khứ sẽ lập lại thêm lần
nữa.
Có khi đang
lặng lẽ xảy ra cũng nên!
---------------------------
Trần Thị Vĩnh Tường (Mùa Vu Lan 2010)
Chú thích:
http://www.free2think.org/forum/viewtopic.php?f=5&t=785&p=5612
http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,794687,00.html
http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=91&ia=409
Cooney, John - “The
American Pope: The Life and Times of Francis Cardinal Spellman”
(New York Times Books, 1984)
Miscamble, Wilson - ”Francis
Cardinal Spellman and Spellman’s War”,
The Human Tradition in the Vietnam Era,
http://books.google.com/books?id=tHygyX9RXiIC&pg=PA3&lpg=PA3&dq=Wilson+D+Miscamble+and+Spellman&source=
bl&ots=lZ2T6ZZj18&sig=_zuULjEnHjbsyldn2Hug6YmSd7I&hl=en&ei=hOFeTILtNpPksQPH4P2pCw&sa=
X&oi=book_result&ct=result&resnum=1&ved=0CBIQ6AEwAA#v=onepage&q=Wilson%20D%20Miscamble%20and%20Spellman&f=false
Carroll, James -
“An American Requiem, God, My Father, and the War that Came Between Us”,
(Houghton Mifflin Co, Boston-New York. 1996),
Malachi,
Martin- “The
Jesuits: The Society of Jesus and the Betrayal of the Roman Catholic
Church” (New York:
The Linden Press/ Simon & Schuster.
http://www.spartacus.schoolnet.co.uk/COLDlansdale.htm
http://www.reformation.org/vietnam.html
http://sachhiem.net/LICHSU/AVRO/AVRO_01.php,
Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam/Trần Thanh Lưu.
Cockburn, Alexander
-19-3-2002-“Billy Graham: War Criminal”
http://www.nypress.com/article-5598-billy-graham-war-criminal.html
http://www.haingoaiphiemdam.com/BEN-KIA-BUC-MAN-SAT/-Xin-m%E1%BB%9Di-nghe-l%E1%BB%9Di-ph%C3%A1t-bi%E1%BB%83u-cu%E1%BA%A3
-Ls-LE-THI-C%C3%94NG-NH%C3%82N-nh%C3%A2n-ng%C3%A0y-30/4/2010.php
|