Guglielmo
Marconi (1874 - 1937) nhà
phát minh vô tuyến điện, Nobel Vật lý 1909
Vào một buổi sáng năm 1898, tại lâu đài nghỉ hè của Nữ
Hoàng Victoria trên đảo Wight, Marconi đang chăm chú thiết
lập liên lạc vô tuyến với con tầu hoàng gia Osborn trên đó
Vua Edouard VII, con của Nữ Hoàng đang dưỡng bệnh. Bỗng
nhiên, Nữ Hoàng Victoria đi qua. Marconi cúi chào. Không
hiểu vì sao, Nữ Hoàng không đáp lại lời chào của nhà phát
minh. Vì mặc cảm thấy sự thiếu lịch sự, Marconi tuyên bố bỏ
dở công việc và ông xin ra khỏi lâu đài. Nữ Hoàng liền ra
lệnh đi tìm một chuyên viên vô tuyến khác song người hầu cận
đã tâu: "Nhưng, thưa Nữ Hoàng, không có ông Marconi nào
người Anh cả ". Thực vậy, làm sao có thể tìm thêm được một
người cha đẻ ra máy vô tuyến điện, một nhà phát minh có công
trình vĩ đại trong đầu thế kỷ thứ 20.
Guglielmo Marconi, con của ông Giuseppe Marconi, ra đời
ngày 25 tháng 4 năm 1874 gần thành phố Bologne, nước Ý. Khi
mới sinh ra, Marconi có đôi tai quá lớn khiến nhiều người
phải kinh ngạc, song bà Anna Jameson lại hãnh diện về đôi
tai của cậu con trai. Bà thường nói: "với đôi tai này, nó có
thể nghe thấy không khí rung chuyển ". Bà có ngờ đâu câu nói
đó là một lời tiên tri. Bà Anna là người xứ Ai Nhĩ Lan, xuất
thân từ một gia đình nổi tiếng về nghề nấu rượu tại Dublin.
Marconi đã học được ở mẹ tính kiên nhẫn và tài chơi đàn
dương cầm.
Marconi yêu thích Khoa Học từ lúc còn nhỏ. Lúc tuổi 12, cậu
Guglielmo đã say mê việc tìm hiểu các môn Vật Lý và Hóa Học.
Marconi thường hay lại thăm một ông già mù, cựu công nhân
điện tín để học hỏi ở ông già này các chữ Morse và môn điện
báo. Năm 20 tuổi, Marconi đọc được một cuốn sách nói về
Heinrich Hertz trong đó có mô tả lại các thí nghiệm của nhà
bác học này. Hertz đã dùng một giòng điện cao thế rồi khi
đem các vòng thép không nối kín hẳn, đặt cách xa hai đầu
điện cực, ông thấy các tia lửa phát ra tại vòng thép dù rằng
không có dây nối. Các thí nghiệm về làn sóng điện từ của nhà
bác học người Đức Hertz đã làm cho Marconi nghĩ rằng có thể
chuyển vận được âm thanh trong không khí. Marconi liền chế
tạo máy phát ra các làn sóng điện từ và cả máy thu nhận các
làn sóng đó. Ông làm rất nhiều thí nghiệm với hai loại máy
này và tăng dần khoảng cách để tìm ra phương pháp truyền tín
hiệu trong không gian.
Vào một buổi chiều đẹp trời năm 1894, Marconi nhấn vào một
nút điện, bỗng một tia lửa bật ra và một âm thanh phát ra
trong căn phòng cách đó không xa. Marconi run lên vì sung
sướng : ông đã thành công trong việc truyền tín hiệu mà
không cần dây nối. Marconi liền trình phát minh của mình lên
chính phủ Ý, nhưng không ai chú ý đến sáng kiến đó. Bà Anna
đành an ủi con: "Con có thể thành công tại quê hương của
mẹ". Vì thế vào tháng 2 năm 1896, Marconi xuống tầu đi
London. Ông không quên mang theo vài va li dụng cụ vô tuyến.
Vào thời bấy giờ, các dụng cụ này là những thứ quá xa lạ với
sự hiểu biết thông thường của mọi người, vì thế nhân viên
quan thuế nước Anh đã nghi ngờ ông, e ngại ông là gián điệp
nên đã khám xét hành lý của ông quá cẩn thận khiến cho các
máy móc vô tuyến đều bị hư hỏng và sau này Marconi phải làm
lại tất cả.
Tới London, Marconi trình bầy phát minh của mình cho chính
phủ Anh và vài xí nghiệp lớn. Ông nói rõ ích lợi thực tế của
phát minh này là cho phép liên lạc với các tầu biển chạy
ngoài khơi, trong khi Anh Quốc là nước đang đứng đầu về vận
tải bằng đường biển. Vì vậy, Công Ty Vô Tuyến Điện Tín của
Marconi được thành lập năm 1897,với tên là Wireless
Telegraph Co., Ltd., có mục đích khuếch trương ngành vô
tuyến điện. Với tuổi 23, Marconi được giao phó trọng trách
nghiên cứu kỹ thuật cho công ty. Ông nhận được 15,000 đồng
tiền mặt và trở nên giàu có. Marconi thiết lập một đài vô
tuyến đầu tiên trên đảo Wight. Nhờ đài này, người ta có thể
liên lạc với các tầu biển chạy cách đảo 18 hải lý.
Marconi luôn luôn tìm cách làm tăng thêm tầm hoạt động của
máy vô tuyến điện. Ông thường làm việc mà quên cả ăn, quên
cả ngủ. Năm 1898, một cuộc đua thuyền lớn được tổ chức tại
Dublin. Vì cách thức thông tin vào thời đó còn quá thô sơ
nên các tin tức loan ra thường bị mất thời gian tính. Nhưng
phát minh của Marconi đã làm cho viên chủ nhiệm tờ báo Daily
Express tại London đặt tin tưởng vào một phương pháp thông
tin hữu hiệu mới. Tòa báo đó liền thuê ông Marconi đi theo
một con tầu tham dự cuộc đua để gửi về các báo cáo. Trong
ngày đầu tiên, công việc chuyển tín hiệu hoàn toàn thất bại,
nhưng Marconi vẫn kiên nhẫn, ông đã thành công trong việc
gửi về hơn một trăm bức điện tín. Công trình phát minh của
Marconi làm cho nhiều người tin tưởng vào một ngành thông
tin hoàn toàn mới lạ.
Thực ra phát minh về vô tuyến điện tín của ông Marconi chỉ
được toàn thể thế giới chú ý vào năm 1899. Trong một đêm tối
bão táp, một con tầu lênh đênh trên biển Manche đang gập
nguy khốn. Tầu đánh điện cầu cứu. Một người trực hải đăng
gần đó đã nhận được tín hiệu báo nguy. Người ta liền thả tầu
đi cấp cứu. Lần đầu tiên, sự phát minh của ông Marconi đã
cứu sống được nhiều sinh mạng. Thanh danh của ông vang lừng.
Tại lục địa châu Au, nhiều quốc gia đã bắt chước nước Anh
đặt các đài vô tuyến điện tín dọc theo các bờ duyên hải và
các con tầu đi biển đều trang bị máy vô tuyến để có thể cấp
báo kịp thời.
Tuy rằng máy vô tuyến điện tín đã cho phép con người liên
lạc với nhau mà không cần dây nối, song mọi người vẫn nghi
ngờ về tầm hoạt động của máy. Nhiều người cho rằng mặt cong
của trái đất sẽ cản trở việc truyền tín hiệu qua đại dương.
Chính điều này cũng làm cho ông Marconi thắc mắc. Ông có
tham vọng nối liền châu Au và châu Mỹ bằng vô tuyến điện.
Sau khi thuyết phục được các hội viên của công ty cho phép
thí nghiệm về cách truyền tín hiệu từ châu Au sang châu Mỹ,
Marconi liền đặt một căn cứ tại Poldhu, thuộc miền tây nam
của nước Anh, còn căn cứ thứ hai được đặt tại Newfoundland,
bên châu Mỹ. Sau một năm trời cố gắng thiết lập các máy móc
tại Poldhu, một trận bão tai ác đã tàn phá công trình của
ông. Không nản chí, Marconi làm lại từ đầu. Trong công cuộc
thí nghiệm này, ông đã gập rất nhiều trở ngại về tài chính,
về kỹ thuật và nhất là vì thời tiết. Nhưng tới ngày 12 tháng
12 năm 1901, một ngày đẹp trời, sau gần một giờ đồng hồ cố
gắng điều chỉnh lại máy móc, ông vẫn chưa bắt được liên lạc
với căn cứ St. John, Newfoundland. Bỗng nhiên, một tín hiệu
khô khan phát ra từ máy nhận và từ nay, ông Marconi đã đánh
đổ quan niệm cũ của nhiều người. Ông đã thành công hoàn toàn
về một lĩnh vực mới của Khoa Học.
Marconi phổ biến kết quả của công trình nghiên cứu đó trên
báo chí, nhưng nhiều người vẫn nghi ngờ. Ông quyết định xây
dựng tại Newfoundland một căn cứ có đầy đủ dụng cụ để thông
tin với nước Anh và làm tan đi mọi mối hoài nghi. Dự tính
này của Marconi chưa được thực hiện thì công ty khai thác
đường dây điện báo xuyên đại dương cảm thấy bị va chạm quyền
lợi. Công ty này liền đưa đơn kiện Marconi và bắt buộc ông
phải ngưng thí nghiệm tại miền đó. Ông đang ở trong tình
trạng nan giải về ngân quỹ thì may mắn thay, Tổng Trưởng Tài
Chính Canada là William Stevens Fielding tặng ông một số
tiền là 16,000 bảng Anh để ông thiết lập một căn cứ vô tuyến
điện tại Glace Bay, miền Nouvelle Ecosse.
Marconi bắt đầu làm việc tại Glace Bay vào mùa xuân năm
1902. Đài vô tuyến được thiết lập xong vào tháng 8 năm đó.
Sau hàng tháng dò thử bằng các máy móc, tới ngày 18-12, sự
liên lạc mới được thực hiện giữa Poldhu và Glace Bay. Tên
tuổi của Marconi vang lừng. Ong trở lại quê hương là nước Ý.
Khắp nơi mọi người đã đón tiếp ông rất nồng hậu. Ông được
truy tặng danh hiệu công dân danh dự tại hai thành phố Rome
và Livourne.
Mùa thu năm 1904, Marconi tới Pool, gần Bornemouth, nước
Anh, để nghỉ ngơi sau mấy năm làm việc cực nhọc. Tại nơi thơ
mộng này, ông đã gặp được ý trung nhân: cô Béatrice O'Brien,
con gái Lord và Lady Inchinquin. Sau lễ thành hôn, hai ông
bà trở lại Nouvelle Ecosse.
Thời đó, công cuộc nghiên cứu truyền tin của Marconi đang
tiến triển khả quan thì tiền vốn của công ty lại cạn gần hết
vì các thí nghiệm về ngành vô tuyến. Marconi được mời về
London. Người ta không chấp thuận cho ông tiếp tục nốt công
trình nghiên cứu. Ông bèn trở lại nước Ý với mong ước được
các nhà ngân hàng nơi đây giúp đỡ, nhưng ông vẫn bị từ chối.
Marconi đành trở lại nước Anh và tổ chức lại công cuộc
nghiên cứu bằng cách giảm bớt người giúp viêc và cắt bớt các
món chi dụng. Nhưng vận rủi vẫn đến với ông liên tiếp: người
con đầu lòng của ông chết lúc mới 3 tuổi, rồi các công ty vô
tuyến điện tại Đức và Mỹ đang tìm cách lấn át quyền lợi của
ông. Tai hại hơn nữa, một trận hỏa hoạn đã tàn phá căn cứ vô
tuyến Glace Bay, nơi mà ông đã đổ vô biết bao tiền bạc, biết
bao công sức trong nhiều năm trường. Nhưng Marconi không nản
lòng. Ông vẫn hăng hái làm việc và còn cố gắng hơn trước.
Lúc nào ông cũng mong muốn chứng tỏ cho mọi người biết rằng
vô tuyến điện không những là một phát minh hữu ích mà còn là
một công việc thương mại có lợi. Sau một năm trời tái thiết,
căn cứ Glace Bay hoạt động như trước, rồi Marconi lại thắng
kiện trong việc khởi tố những kẻ đã xử dụng bằng phát minh
của ông mà không xin phép.
Năm 1909, Marconi được trao tặng Giải Thưởng Nobel về Vật
Lý cùng với nhà khoa học Karl F. Braun (1850-1918), người
Đức. Danh tiếng của ông lại vang lừng. Marconi tổ chức lại
Hội Khai Thác Vô Tuyến Điện và đặt Hội trên một căn bản mới.
Nhưng có một sự kiện làm cho Marconi cảm động nhất, đó là
nhờ phát minh của ông, 706 người cùng một lúc đã thoát khỏi
bàn tay của Tử Thần. Thảm cảnh này xẩy ra vào năm 1912 trên
Tầu Titanic. Con tầu này bị đắm khi đang lênh đênh giữa đại
dương. Người ta chỉ còn biết đánh đi một cách tuyệt vọng các
tín hiệu S.O.S. Chính vào lúc nguy kịch đó, các tầu cấp cứu
đã tới kịp. Trong buổi đón tiếp tổ chức tại bến cảng New
York, những người thoát nạn đã ôm lấy ông và nói: "Ông
Marconi, chúng tôi còn sống là nhờ ông". Marconi đã chiếm
được sự khâm phục và lòng biết ơn của toàn thế giới. Tại Hoa
Kỳ, ông được trao tặng huy chương vàng. Tại nước Anh, nhà
vua đã phong cho ông chức Hiệp Sĩ. Ông lại được tặng chức
Hầu Tước và danh hiệu Thượng Nghị Viên tại nước Ý. Tuy
nhiên, Marconi vẫn không ngừng làm việc. Ông tiếp tục cải
tiến các máy móc truyền tin căn bản, gửi đi được các tín
hiệu càng ngày càng xa hơn. Năm 1910, từ Clifden tại Ai Nhĩ
Lan, ông đã có thể nhận được các tín hiệu phát đi từ Buenos
Aires nước Argentina, rồi vào năm 1918, Marconi đã gửi được
tín hiệu từ nước Anh tới nước Uc.
Sau khi đã thành công trong việc phát ra các làn sóng dài,
Marconi lại quay sang nghiên cứu về làn sóng ngắn. Vào năm
1922, ông đã hoàn chỉnh việc truyền đi các làn sóng ngắn
bằng cách dùng tới một gương cầu phản chiếu (parabolic
reflector). Hệ thống này ngày nay còn được phần lớn các cơ
sở truyền thông trên thế giới xử dụng. Marconi đã tiến hành
công việc chuyển từ ngành vô tuyến điện tín (wireless
telegraphy) thành vô tuyến điện thoại (wireless telephony)
mà ngày nay được gọi là vô tuyến truyền thanh (radio). Cũng
trong số các phát minh hữu dụng của Marconi là bộ phận tìm
phương hướng bằng vô tuyến RDF (radio direction finder) nhờ
đó các tầu biển và máy bay có thể xác định được vị trí bằng
các tín hiệu radio. Marconi còn làm nhiều thí nghiệm về làn
sóng phản chiếu và làn sóng điện cực ngắn (UHF) và các tìm
kiếm này là bước đầu trong việc thực hiện các máy radar và
vô tuyến truyền hình.
Thời đó, một hội chợ triển lãm các phát minh của đầu thế kỷ
20 được tổ chức tại Chicago. Để tỏ lòng quý mến nhà đại phát
minh đã viếng thăm hội chợ, người ta đã đặc biệt dành một
ngày gọi là "Ngày Marconi". Khi đi thăm các gian hàng, ông
Marconi đặc biệt chú ý tới một máy vô tuyến do một thanh
niên tự lắp lấy. Chàng trai này khi đó cảm thấy ngượng ngùng
trước nhà đại phát minh nên đã nói: "Thưa ông Marconi, chiếc
máy này không có gì đặc biệt cả vì tôi chỉ là một nhà tài tử
". Nhưng Marconi đã cười và đáp lại: "Tôi cũng chì là một
nhà tài tử mà thôi! ".
Vì thường phải đi từ nước Anh sang nước Ý hay Canada,
Marconi đã đặt ngay một phòng thí nghiệm trên chiếc tầu biển
Elettra, trọng tải 730 tấn, để có thể làm việc lúc đang di
chuyển. Thông thường, ông sống trên con tầu này với gia đình
trong nửa năm, còn thì ông hoạt động tại các căn cứ vô tuyến
điện đặt trên các hải đảo.
Guglielmo Marconi qua đời vào ngày 20 tháng 7 năm 1937, để
lại cho mọi người lòng tiếc nhớ một bộ óc phát minh hiếm có,
một đức tính kiên nhẫn đáng khâm phục và một lòng hy sinh
hoàn toàn cho Khoa Học./