Enrico Fermi
(1901 – 1954), bác học
người Ý lãnh Giải Thưởng Nobel Vật Lý năm 1938
Enrico
Fermi là nhà bác học nguyên tử tài giỏi cả về lý
thuyết lẫn thực nghiệm, có đầu óc sáng tạo xuất sắc
và cá tính giản dị, tất cả tài và đức đã khiến cho
ông được nhiều người yêu mến và kính phục.
1/ Thời kỳ
đi học.
Enrico Fermi sinh
tại thành phố Rome, nước Ý, ngày 29 tháng 9 năm
1901, là con út trong một gia đình ba anh em, có cha
là nhân viên của Bộ Hỏa Xa (the Ministry of
Railroads). Ngay từ thuở nhỏ, Enrico cùng với người
anh lớn hơn một tuổi tên là Giulio nổi tiếng là thần
đồng. Hai anh em Fermi đã tự vẽ kiểu và chế tạo các
động cơ điện cũng như các kiểu mẫu động cơ máy bay,
khiến cho các chuyên viên cơ khí phải thán phục và
không ngờ rằng những đồ án này lại được sáng tạo do
các bàn tay của thiếu niên, nhất là những thiếu niên
này lại sống vào đầu thế kỷ 20. Người ta đã không
thể phân biệt sáng chế nào là của Giulio, hay của
Enrico, vì cả hai anh em này cùng có tài và khéo léo
như nhau, cùng ưa thích Khoa Học.
Nhưng,
bỗng nhiên Giulio chết vào năm 15 tuổi, khiến cho
Enrico cảm thấy quá cô đơn, buồn nản. Trước kia,
Enrico chưa quan tâm nhiều đến sách vở, mà chỉ ưa
thích các công việc thực hành, nay sống giữa sự buồn
phiền, Enrico đã tìm quên bằng cách đọc sách. Cậu đã
tự học Toán Học và Vật Lý với tầm hiểu biết cao hơn
chương trình học của nhà trường. Sách vở thiếu thốn,
gia cảnh thanh bần, Enrico đành tìm kiếm mua lại các
sách cũ bày bán tại chợ trời mỗi ngày thứ tư và cậu
đã tìm được phần lớn các sách học ưa thích và mong
muốn.
Nhờ tài
năng của mình, Enrico đã được một người bạn của cha
chú ý tới. Ông kỹ sư này tên là A. Amidei, cũng ưa
thích hai môn Vật Lý và Toán Học và đã nhận ra trí
thức đặc biệt của Enrico, nên rất quý mến cậu nhỏ
thông minh. Ông Amidei thường hướng dẫn Enrico học
tập về Toán và Vật Lý trong các năm giữa tuổi 13 và
17. Để trêu trọc Enrico, ông đã ra cho cậu một bài
toán khó mà chính ông cũng thể giải đáp, và ông ta
đã phải kinh ngạc khi thấy Enrico cho biết kết quả
đúng.
Thời bấy
giờ tại thành phố Pise, có Hội Reale Scuola Normale
Superiore cấp dưỡng ăn, ở và lại thuyết trình nhiều
bài khảo cứu đặc biệt cho các sinh viên có tài đang
theo học tại trường đại học Pise. Enrico Fermi được
một người bạn của cha khuyến khích thi vào Hội Reale
Scuola Normale Superiore. Trong kỳ thi này, Enrico
đã viết một bài về "dây đàn" và bài này được Hội
Đồng Giám Khảo chấm là xuất sắc.
Trường đại học Pise là một ngôi trường nhỏ
nhưng có nhiều tục lệ cổ truyền từ thời Trung Cổ còn
lưu truyền lại. Tại trường này, sự quấy nhộn cũng
như tính nghiêm nghị đều là các nguồn vui sống của
sinh viên. Đối với Fermi, sự quấy nhộn cũng cần
thiết cho chàng như sự học vấn vậy. Enrico đã gia
nhập "Hội Phá Phách các Người Láng Giềng" (the
Anti-Neighbors Society) và chủ trương của Hội này là
trêu trọc mọi người, kể cả các hội viên khác. Enrico
đã trở nên một người thành thạo trong các trò đùa,
chẳng hạn như đặt một thau nước trên cánh cửa ra
vào, khiến cho người đẩy cửa bước vào bị nước lạnh
dội từ đầu xuống chân.
Vào năm
cuối cùng của 4 năm học tại trường đại học , Enrico
đã nổi tiếng tài giỏi về môn Vật Lý, khiến cho một
vị Giáo Sư đã phải nhờ chàng chỉ dẫn về lý thuyết
mới. Enrico đã giảng giải cho ông thầy của mình hiểu
rõ về Thuyết Tương Đối của Albert Einstein. Enrico
cũng viết nhiều bài khảo cứu về điện động lực học
theo thuyết tương đối (relativistic
electrodynamics).
2/ Thời kỳ
làm Giáo Sư.
Năm 1922,
Enrico Fermi nạp Luận án Tiến Sĩ khảo cứu về Quang
Tuyến X. Cùng với đề tài này, ông đã trình bày trước
Hội Đồng Giám Khảo sự học rộng của ông và những kiến
thức của Fermi đã khiến cho vài vị giám khảo phải
cau mày vì khó chịu, một số khác lại ngạc nhiên vì
chính họ cũng chưa hiểu rõ vấn đề. Vì thế, khi được
trao văn bằng Tiến Sĩ, Enrico Fermi không được vị
nào trong 7 vị giám khảo bắt tay hay khen ngợi, và
luận án của ông cũng không được phổ biến, mặc dù cả
ba điều kể trên đều là các tục lệ khoa cử.
Khi Fermi trở lại thành phố Rome thì cũng là thời kỳ
Benito Mussolini và đảng Phát Xít lên nắm
chính quyền. Cũng trong thời gian này và tại châu
Âu, lý thuyết Nguyên Tử đang được mọi giới khoa học
chú ý. Ngoài Thuyết Tương Đối, Albert Einstein còn
đề cập tới lý thuyết về Electron và lãnh Giải Thưởng
Nobel về Vật Lý Học. Trong khi đó tại nước Đan Mạch,
nhà bác học Niels Bohr đã mô tả nguyên tử bằng một
hình thái tương tự như thái dương hệ.
Từ lâu,
Enrico Fermi vẫn ưa thích khảo cứu ngành Vật Lý
Nguyên Tử. Không lâu sau khi đậu xong văn bằng Tiến
Sĩ, Enrico Fermi đạt được học bổng của chính phủ Ý
để theo học tại trường đại học Gottingen, nước Đức,
trong 8 tháng. Tại trường đại học này, Enrico đã học
với Giáo Sư Max Born và đã quen các nhà vật lý
Werner Heisenberg và Wolfgang Pauli, sau đó, về nước
và giảng dạy Toán Học tại trường đại học Rome, rồi
các năm sau tại trường đại học Florence.
|
|
|
|
Niels Bohr
|
Max Born |
George E.
Uhlenbeck |
Orso M.
Corbino |
Vào năm
1924, theo lời khuyên của Giáo Sư George E.
Uhlenbeck, Enrico Fermi đã tới trường đại học Leiden
để theo học Giáo Sư Paul Ehrenfest, rồi nhiều năm về
sau khi ông Uhlenbeck làm việc tại trường đại học
Michigan, Hoa Kỳ, ông ta đã thu xếp giúp Enrico
Fermi theo học các khóa vật lý lý thuyết
(Theoretical Physics) vào mùa hè các năm 1930, 1933
và 1935 tại Michigan.
Thời đó
tại trường đại học Rome, có một nhà vật lý nhìn xa,
biết rộng, là Giáo Sư Orso Mario Corbino. Giáo Sư
Corbino mong muốn các nhà trí thức trẻ tại Rome lưu
tâm tới ngành Vật Lý Mới và khiến cho Phân Khoa Lý
Hóa của trường đại học không đi mãi vào vết bánh xe
cũ, nhưng Giáo Sư Corbino chưa thể tìm ra được các
nhân tài trẻ tuổi mong muốn.
Tới khi
Fermi từ nước Đức trở về và đã giảng dạy tại trường
đại học Florence, thì Giáo Sư Corbino đã tập họp
được một số nhỏ các nhà vật lý mong đợi. Fermi được
mời trở lại trường đại học Rome để giữ chân giáo sư
vật lý lý thuyết và cũng để đứng đầu nhóm vật lý gia
của ngành Khoa Học Mới. Trong thời gian này, Fermi
đã gặp gỡ cô Laura Capon, ái nữ của một vị sĩ quan
Hải Quân Ý. Cô Laura gốc người Do Thái, hiện đang
theo học năm thứ hai của trường đại học và cũng ưa
thích Khoa Học. Chính trong thời kỳ trăng mật trên
Núi Alpes, Fermi đã dạy Vật Lý cho cô Laura và nhờ
vậy, bà Fermi sau này đã giúp chồng rất đắc lực
trong việc soạn thảo các sách giáo khoa khiến cho
ngân quỹ gia đình bớt eo hẹp. Nhờ bà Laura, sách do
Fermi viết ra, trở nên dễ hiểu đối với các sinh viên
có đầu óc thông minh trung bình.
Từ năm
1926, Enrico Fermi dạy Vật Lý tại trường đại học
Rome, rồi ba năm sau, ông trở nên nhân vật trẻ trung
nhất của Hàn Lâm Viện Hoàng Gia Ý, Viện này mới được
nhà độc tài Mussolini thành lập. Cũng vào thời kỳ
này, Fermi đã khảo cứu thực nghiệm về lý thuyết
nguyên tử.
Enrico
Fermi đã cho phổ biến vào năm 1926 một khám phá quan
trọng đầu tiên, có tên là "thống kê quantum" (the
quantum statistics). Ngày nay, ngành học này được
gọi là ngành thống kê Fermi-Dirac (Fermi-Dirac
statistics) và các hạt (particles) tuân theo các
định luật thống kê này được gọi tên là "fermions".
Khám phá này của Enrico Fermi đã dẫn tới sự hiểu
biết một số đặc tính quan trọng của lý thuyết về
chất khí (gas theory), về tại sao electrons trong
kim loại dẫn điện, tại sao electrons không đóng góp
vào các nhiệt đặc biệt của vật chất, cùng các hiện
tượng khác của nguyên tử (atom).
Enrico
Fermi cũng giải đáp nhiều bài toán về nguyên tử
(atomic), phân tử (molecular) và phép đo quang phổ
hạt nhân (nuclear spectroscopy). Một công trình của
Enrico Fermi được giới khoa học vào thời kỳ này ca
ngợi nhất, đó là lý thuyết phân rã hạt nhân bêta
(the theory of nuclear beta decay), đây là phần bổ
túc cho lý thuyết phân rã hạt nhân alpha (nuclear
alpha decay) của George Gamow, R. W. Gurney và
Edward U. Condon.
Khác với
Frédéric và Irène Curie tại Pháp đã sử dụng các tia
alpha để bắn vào các nguyên tử aluminium, Enrico
Fermi lại dùng đạn bắn là các neutrons để xem xét
các tính chất phóng xạ xuất hiện tại những chất bị
bắn vỡ. Neutrons là thứ không mang điện lượng, nên
dễ dàng bắn trúng nhân nguyên tử. Nguồn cung cấp
neutrons là Radium, là thứ rất đắt tiền mà không một
nhà vật lý nào có thể mua nổi. Nhưng nhờ may mắn,
văn phòng Y Tế Rome vào thời bấy giờ có một gam thứ
kim loại quý này và Fermi được phép sử dụng nó. Đồng
thời, ông cũng tìm ra được phương pháp chế tạo máy
phát hiện đếm Geiger (Geiger-counter detector) dùng
để khám phá các chất phóng xạ.
Fermi đã
đặt ra nguyên tắc khoa học để lấy các neutrons như
sau:
1/ Dùng chất
Radium là chất phóng xạ có trọng lượng nguyên tử
226. Chất này phát huy ra các tia alpha và sinh ra
hơi Radon. Mảnh alpha chính là nhân nguyên tử Hélium
có trọng lượng nguyên tử là 4. Vậy hơi Radon có
trọng lượng nguyên tử là 222.
2/ Lấy tia alpha
bắn vào chất Beryllium, người ta sẽ lấy được một thứ
tia không bị ảnh hưởng của từ tính: đó là những mảnh
vật chất có tên là neutron.
Fermi đã
tìm cách làm giảm tốc độ cực nhanh của neutron bằng
cách cho chúng chạy qua một chất điều hòa (a
moderator, a paraffin filter). Ông đã tiên đoán rằng
khi neutron nhập vào một nhân nguyên tử, nhân này
hoặc trở nên bấp bênh rồi vỡ ra để hóa thành hai
chất đồng vị phóng xạ, hoặc trở nên ổn định, khi đó
sẽ có một chất đồng vị mới, nặng hơn. Bằng cách này,
người ta có thể tạo ra những chất nặng hơn Uranium.
Enrico
Fermi đã khám phá thấy rằng các neutrons chậm tạo ra
một loại phản ứng trong khi các neutrons
nhanh lại gây nên loại phản ứng khác. Sự tìm ra các
tính chất đặc biệt của neutrons chậm đã là khám phá
then chốt của ngành vật lý neutron (neutron
physics).
Kết quả
chính xác của những điều tiên đoán lý thuyết và của
những công trình khảo cứu thực nghiệm của Enrico
Fermi đã mang lại cho nhà bác học này Giải Thưởng
Nobel Vật Lý năm 1938, trao tặng về: "cách nhận
định các chất phóng xạ mới do cách bắn bằng neutron
chậm" (for his identification of new radioactive
elements produced by neutron bombardment and his
discovery of nuclear reactions effected by slow
neutrons). Nhưng, sự vinh quang của nhà bác học
Enrico Fermi đã bị đảng Phát Xít Ý lợi dụng và coi
như đây là một thành công của chủ nghĩa Phát Xít về
phương diện Khoa Học.
Vào thời
bấy giờ, phong trào "bài Do Thái" đang lan tới nước
Ý. Vì lo sợ cho sự an toàn của vợ và hai con, ông
Enrico Fermi đã mang gia đình sang nước Thụy Điển
trong dịp lễ nhận Giải Thưởng Nobel, rồi sau đó, ông
sang Hoa Kỳ vào ngày 02 tháng 01 năm 1939 và nhận
giảng dạy tại phân khoa Vật Lý của trường đại học
Columbia. Với sự trợ giúp của Herbert L. Anderson,
Enrico Fermi đã dùng các tia neutrons trong máy
Cyclotron để kiểm chứng lại lý thuyết về phân hạch
tử của chất Uranium (fission of uranium).
3/ Thời kỳ nghiên
cứu Nguyên Tử tại Hoa Kỳ.
Enrico
Fermi không phải là nhà bác học đầu tiên rời bỏ châu
Âu để sang Hoa Kỳ tị nạn vì các chế độ của Hitler và
Mussolini. Sau khi nhà đại bác học Albert Einstein
tới nước Mỹ trú ẩn vào năm 1933, đã có rất nhiều nhà
bác học lừng danh khác cũng sang Hoa Kỳ, chẳng hạn
như James Franck, Victor Hess, Peter Debye, Otto
Loewi, Albert Szent-Gioergyi là những người đã từng
lãnh Giải Thưởng Nobel, và các nhà khoa học nổi danh
khác như Otto Stern và Fritz Lipmann..., tất cả đều
đang nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm ở rải rác
khắp Hoa Kỳ.
|
|
|
|
James Franck |
Victor Hess |
Peter Debye |
Otto Loewi |
|
|
|
|
Otto Stern
- Wolfgang
Pauli |
Fritz Lipmann |
Lise Meitner |
George Thomson |
Trước khi Fermi
sang châu Mỹ một năm, tại Viện Hóa Học Hoàng Đế
Wilhelm (The Kaiser Wilhelm Institute for
Chemistry), cách tòa nhà Chưởng Ấn (Chancellery) của
Hitler vài dặm đường, ba nhà bác học Otto Hahn,
Fristz Strassmann và Lise Meitner đã nghiên cứu lại
các thí nghiệm của Enrico Fermi thực hiện tại Rome
vào năm 1934. Từ công cuộc khảo cứu này, Lise
Meitner đã tìm thấy khi sống tại Thụy Điển, rằng lúc
phân hạch tử (fission), có khối năng lượng rất lớn
phát sinh ra, đúng theo định luật của Einstein. Lise
Meitner đã trình bày cho nhà bác học Niels Bohr rõ
về các điều khám phá của mình.
Khi
Enrico Fermi gặp nhà đại bác học người Đan Mạch tại
bến tầu, Niels Bohr cho biết ông quyết định ở lại
Hoa Kỳ vài tháng để bàn luận nhiều vấn đề khoa học
với Albert Einstein, vào thời gian này đang làm việc
tại Viện Khảo Cứu Khoa Học Princeton (the Institute
for Advanced Study at Princeton). Ngày 26 tháng 1
năm 1939, Niels Bohr tham dự một cuộc hội thảo lý
thuyết vật lý tại trường đại học George Washington ở
Thủ Đô Washington D.C. Trong cuộc hội họp này, các
nhà khoa học đều bận tâm và cũng ngạc nhiên về sự
phân hạch tử. Trong phạm vi mới này, Enrico Fermi
đáng được kể là một trong các nhà bác học thượng
đẳng.
Enrico
Fermi còn tường thuật cho Niels Bohr biết cả về phản
ứng dây chuyền (chain reaction). Phản ứng này có thể
ví như sự cháy nổ của một tràng pháo khi chỉ cần đốt
một chiếc pháo khởi đầu, và theo lý thuyết, khi một
gam uranium nổ theo phản ứng này, năng lượng sinh ra
có thể tương đương với nhiều triệu kilô chất nổ TNT.
Vào thời
bấy giờ, Niels Bohr và một sinh viên cũ của ông là
John A. Wheeler, thuộc trường đại học Princeton, rất
quan tâm về phản ứng dây chuyền. Hai nhà khoa học
này tự hỏi tại sao phản ứng này đã không xẩy ra
trong nhiều thí nghiệm khác nhau, đã được thực hiện
rồi?
Vào
khoảng ba tuần lễ sau cuộc hội họp của Hội Vật Lý Mỹ
Quốc (The American Physical Society), Niels Bohr và
John Archibald Wheeler đặt giả thuyết rằng không phải tất
cả số lượng uranium dùng làm mục tiêu, đã bị tách
phân, mà chỉ có 1% bị nổ vỡ. Thực ra, chất Uranium
thiên nhiên có 3 chất đồng vị: chất thứ nhất có
trọng lượng nguyên tử là 238, chiếm 99.3% khối
lượng, chất thứ hai có trọng lượng nguyên tử là 235,
chỉ hợp thành 0.7% của khối lượng, và chất thứ ba là
U-234, khối lượng không đáng kể. Niels Bohr và John
Wheeler lý luận rằng chỉ lấy được phản ứng dây
chuyền ở chất Uranium 235 nguyên chất, và đồng thời
đề nghị dùng neutron do Fermi tìm ra năm 1934 làm
đạn bắn.
Sở dĩ
phải dùng tới U-235 nguyên chất, vì nếu dùng neutron
làm đạn bắn vào Uranium thiên nhiên, đôi khi nhân
của U-235 bị vỡ, nhưng nhiều khi nhân của U-238 lại
hút trước mất neutron. Nhân U-235 có đặc tính dễ bị
neutron chậm bắn trúng, còn neutron nhanh lại dễ
dàng trúng vào nhân U-238. Các phản ứng dây chuyền
đã không xẩy ra trước kia, vì khi dùng neutron chậm
bắn vào chất Uranium thiên nhiên, một vài viên đạn
đã trúng vào nhân U-235 và như vậy, làm văng ra các
neutrons khác, nhưng các đạn mới văng ra này lại bay
quá mau, thành ra dễ nhắm vào nguyên tử U-238 và
nguyên tử U-235 không bị nhắm bắn nữa.
Để thử
nghiệm các ý tưởng của Bohr-Wheeler, người ta cần
đến một lượng U-235, nhưng việc phân tách U-235 ra
khỏi chất U-238 là một công việc cực kỳ khó khăn.
Vào lúc bấy giờ tại trường đại học Minesota, Alfred
O. Nier đã thành công trong việc lấy được một lượng
cực nhỏ chất U-235. Nier liền gửi lượng này cho
Fermi tại trường đại học Columbia. Fermi đã bắn
lượng này và một lượng thứ hai chế tạo do phòng thí
nghiệm General Electric, bằng neutrons chậm trong
máy Cyclotron.
Tháng 3
năm 1939, Niels Bohr trở về nước Đan Mạch. Đúng một
năm sau, các lời tiên đoán của Niels Bohr và John
Wheeler được công nhận là đúng, nhưng Niels Bohr
cũng như các nhà bác học khác đều đồng ý không cho
phổ biến các sự khám phá về phạm vi chất nổ. Như
vậy, công việc kiểm soát sự phóng ra năng lượng
nguyên tử không những đã trở nên một thành công lớn
lao nhất, mà còn là một thành công cách mạng trong
Lịch Sử Khoa Học.
Trong
phạm vi khảo cứu nguyên tử lực thời bấy giờ, ngoài
các nhà bác học Hoa Kỳ, còn có Niels Bohr người Đan
Mạch, Enrico Fermi, Emilio Segré và Bruno Pontecorvo
người Ý, Wolfgang Pauli và Victor Weisskopf người
Áo, Léo Szilard, Edward Teller và Georg von Hevesy
người Hung, Irène và Frédéric Joliot-Curie người
Pháp, Peter Kapitza và Dmitri Skobelzyn người Nga,
Chandresekhara Raman người Ấn Độ và cuối cùng là
Hideki Yukawa người Nhật Bản.
|
|
|
Emilio
Segré |
Bruno Pontecorvo |
Victor Weisskopf |
|
|
Hàng đầu: Hevesy; Petersen
Agnes; Haber Fritz. Hàng sau:
Bohr Niels; Göntelberg Einar; Brönsted
Johannes N. Cảnh lấy ở
Copenhagen Polytechnic Institute. |
Frédéric
Joliot-Curie |
Léo Szilard là
một nhà bác học phải trốn đi tị nạn tại Hoa Kỳ. Ông
ta là người chống đối chủ nghĩa Đức Quốc Xã một cách
tích cực. Trong thời gian khảo cứu tại trường đại
học Columbia, Szilard cùng với Walter Zinn, một nhà
khoa học trẻ người Gia Nã Đại, tìm cách xác nhận sự
phân hạch tử (nuclear fission). Đêm hôm 3 tháng 3
năm 1939, Szilard đã nhận thấy rõ ràng rằng thế giới
sẽ gặp phải "thảm cảnh" vì liên lụy vào cách phân
hạch tử. Szilard cũng lo ngại biết đâu các nhà khoa
học của Hitler đã đi trước trong công tác chế tạo
một quả bom dùng nguyên tử năng và như vậy, họ có
thể nô lệ hóa thế giới vào một ngày gần đây.
Vào tháng
7 năm 1939, Szilard tới Princeton và bàn chuyện với
Eugene P. Wigner, một nhà khoa học từ nước Hung tới
Hoa Kỳ tị nạn. Sau đó Szilard quyết định tìm gặp nhà
đại bác học Albert Einstein. Nhưng khi đó, Einstein
đang nghỉ mát tại Vịnh Peconic, thuộc miền Long
Island. Szilard liền nhờ Edward Teller đưa xe tới
đó. Tháng 8 năm 1939, Einstein đã viết thư cho Tổng
Thống Franklin D. Roosevelt, đề cập tới nguồn năng
lượng của chất Uranium. Bức thư này được Szilard đưa
cho Alexander Sachs, khi đó là cố vấn cho Tổng Thống
Hoa Kỳ. Ngày 11 tháng 8 năm 1939, Sachs đã trao bức
thư của Einstein cho Tổng Thống Roosevelt tại Tòa
Bạch Cung.
Tổng
Thống Roosevelt nhận thấy ngay hiểm họa nếu phe Quốc
Xã dùng được năng lượng nguyên tử, nên đã cho lập ra
Ủy Ban Cố Vấn về Uranium (the Advisory Committee on
Uranium). Ủy Ban này gồm Alexander Sachs, Léo
Szilard, E. P. Wigner, Edward Teller, Enrico Fermi
và vài tướng lãnh. Ngày 21/8/1939, Ủy Ban này hội
họp và đồng ý không để cho chính phủ liên bang tham
dự vào công cuộc khảo cứu nguyên tử năng, mà trao
nhiệm vụ này cho các trường đại học. Vì thế, trường
đại học Columbia đã nhận được vào ngày 20/ 2/1940
một món tiền trợ cấp quá nhỏ là 6,000 mỹ kim để
Enrico Fermi, Léo Szilard và các nhà vật lý khác sử
dụng trong việc tìm hiểu nguyên tử.
Vào khoảng đầu
năm 1940, cả nhà đại bác học Einstein lẫn Sachs đều
bất mãn vì công cuộc khảo cứu Uranium quá chậm chạp.
Tháng 4 năm này, Sachs lại tới Tòa Bạch Cung để
thuyết phục Tổng Thống Roosevelt làm sao cho công
việc nghiên cứu được tiến hành mau hơn và có nhiều
ngân khoản hơn.
Trong
khoảng thời gian này, nước Anh cũng hết sức lo lắng
về sự khả hữu của quả bom nguyên tử do Đức chế tạo.
Các nhà khoa học Anh đã biết rõ rằng phần lớn các
nhà bác học của Viện Wilhelm đang tìm cách chế ngự
nguyên tử. Vì thế, nước Anh cũng phải chạy đua.
Tháng 4 năm 1940, một ủy ban nghiên cứu được thành
lập, đứng đầu là Sir George P. Thomson, nhân vật đã
lãnh Giải Thưởng Nobel. Công cuộc nghiên cứu nguyên
tử năng do Otto R. Frish và J. Rotblat thực hiện tại
Liverpool, rồi tới N. Feather và E. Bretscher khảo
cứu tại phòng thí nghiệm lừng danh Cavendish
(Cavendish Laboratory of Experimental Physics).
Các nhà
bác học Pháp cũng được thông báo về hiểm họa của bom
nguyên tử nếu thứ khí giới này được Đức Quốc Xã chế
tạo xong. Vì thế, Frédéric Joliot-Curie liền nhờ các
cộng sự viên của mình là H. Von Halban và L.
Kowarski tới Cambridge, để hợp tác với các nhà bác
học nguyên tử người Anh.
Tháng 6
năm 1940, Tổng Thống Roosevelt cho thành lập Ủy Ban
Nghiên Cứu Phòng Vệ Quốc Gia (the National Defense
Research Committee) và như vậy, Ủy Ban Cố Vấn về
Uranium trở nên một thành phần của Ủy Ban mới này.
Gần cuối
năm 1940, trường đại học Columbia nhận được tiền trợ
cấp 40,000 mỹ kim dùng để khảo cứu về phản ứng dây
chuyền. Tới mùa hè năm 1941, Vannevar Bush, Chủ Tịch
của Ủy Ban Nghiên Cứu Phòng Vệ Quốc Gia, đã trình
bày trước Tổng Thống Roosevelt về công cuộc khảo cứu
nguyên tử đang được tiến hành, cũng như các báo cáo
của K. T. Bainbridge và C. C. Lauritsen nói tới cuộc
hội họp với Ủy Ban của Sir Thomson. Lúc bấy giờ, các
nhà khoa học người Anh đã quả quyết rằng người ta sẽ
chế tạo được bom nguyên tử. Tổng Tống Roosevelt liền
khuyến dụ ông Clement Attlee và một nhân vật của Nội
Các Churchill, nên để các nhà khoa học Anh cộng tác
về kiến thức và nhân lực với các nhà bác học Mỹ
trong phạm vi nguyên tử năng. Đề nghị này đã được
chính phủ Churchill tán thành nhiệt liệt.
Sau đó,
hai nhà bác học Harold C. Uray và George B. Pegram
liền sang nước Anh vào tháng 11 năm 1941, để thương
thuyết với các nhà khoa học người Anh. Rồi một nhóm
bác học Anh cùng với Rudolf E. Peierls, Franz E.
Simon, hai nhà khoa học tị nạn, và H. Von Halban tới
nước Mỹ để làm việc.
Tiếp
theo, Ủy Ban Nghiên Cứu Phòng Vệ Quốc Gia được tổ
chức thành Sở Nghiên Cứu và Phát Triển Khoa Học (the
Office of Scientific Research and Development). Dự
án chế tạo bom nguyên tử (the Manhattan Engineer
District) được thực hiện theo lệnh của Bộ Trưởng
Quốc Phòng Hoa Kỳ Henry L. Stimson. Nhiều bài toán
trọng yếu đã được phân chia cho các nhóm nghiên cứu,
trong đó có công việc thực hiện phản ứng dây chuyền.
Riêng về công cuộc nghiên cứu này, trách nhiệm được
trao cho trường đại học Chicago vào tháng 01/1942.
Tháng 4 năm này, phần lớn các nhà bác học, trong đó
có Enrico Fermi, được mời tới trường đại học Chicago
để làm việc.
Mục đích
chính của nơi khảo cứu mới này là tìm cách cung cấp
U-235 nguyên chất, còn Enrico Fermi được chỉ định
thiết lập một dụng cụ cho phép gây ra phản ứng dây
chuyền kiểm soát được a controlled chain reaction).
Tại trường đại học Chicago, Fermi đã cho xây dựng
một pin nguyên tử (*) có hình dáng một quả cầu đường
kính 8 mét.
Ngày
02/12/1942, sau khi đã kiểm soát kỹ lưỡng các máy
móc, Enrico Fermi ra lệnh cho chuyển vận pin nguyên
tử (*) và con người từ nay đã tìm ra được một thứ năng
lượng nhân tạo. Enrico Fermi và 41 nhân vật chứng
kiến cuộc thứ máy thời đó, đã nhận thấy rõ rằng nhân
loại đang bước vào một khúc quanh trọng yếu của Lịch
Sử. Trước biến cố quyết định này, Arthur H. Compton,
Chủ Tịch của một ủy ban đặc biệt thuộc Hàn Lâm Viện
Khoa Học Hoa Kỳ (the National Academy of Sciences)
đã gọi điện thoại cho James B. Connant, nhân vật phụ
trách theo dõi chương trình của Sở Nghiên Cứu và
Phát Triển Khoa Học, và đã nói một cách bóng bẩy để
ám chỉ sự thành công của nhà bác học Enrico Fermi về
phản ứng dây chuyền như sau: "Nhà Hàng Hải người
Ý đã tới bờ của Tân Thế Giới và đã thấy các thổ dân
rất thân thiện. Đây là một thế giới nhỏ hơn thứ mà
ông ta đã tin tưởng".
Vào năm 1940 trước kia, nhà bác học Glenn T. Seaborg
khi mới 28 tuổi, đã tìm ra được chất Plutonium. Đơn
chất thứ 94 này là một chất rất bền, nhưng dễ bị ảnh
hưởng do đạn neutrons bắn tới, để rồi phân tách
giống như Uranium-235 mà sinh ra phản ứng dây
chuyền. Plutonium lại dễ chế biến hơn là
Uranium-235, mặc dù đối với chất U-235, người ta đã
tìm ra hai phương pháp: phương pháp điện từ
(electromagnetic method) của Francis W. Aston, được
Ernest Lawrence dùng tại trường đại học Berkeley, và
phương pháp khí khuếch tán (gaseous diffusion
method) của các nhà bác học nguyên tử Anh, được
Harold C. Urey và John Dunning dùng tại trường đại
học Columbia.
Muốn cho
chắc chắn, các nhà khoa học quyết định chế tạo cả
hai chất Plutonium lẫn U-235 với một số lượng lớn
đáng kể. Như vậy, người ta phải lo xây dựng nơi chế
tạo. Xưởng chế tạo chất U-235 được xây dựng tại Oak
Ridge, thuộc tiểu bang Tennessee, trong khi đó,
xưởng Hanford ở tiểu bang Washington sản xuất chất
Plutonium.
Cùng vào
thời gian này, quả bom nguyên tử đầu tiên được xúc
tiến thực hiện tại một cao nguyên hẻo lánh, cao hơn
2,000 thước và ở gần Los Alamos, thuộc tiểu bang New
Mexico. Giám đốc chương trình chế tạo này là nhà bác
học J. Robert Oppenheimer, một nhà vật lý lý thuyết
thuộc trường đại học California. Ông Enrico Fermi
lại được mời cộng tác vào chương trình Manhattan,
với mục đích chế tạo bom nguyên tử. Fermi cùng gia
đình tới cư ngụ tại một địa điểm gần Santa Fe, New
Mexico. Ông trở nên Phụ Tá Giám Đốc của Trung Tâm
Nguyên Tử Los Alamos.
4/ Các năm
cuối cùng.
Sau khi
Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, ông Enrico Fermi trở lại
trường đại học Chicago. Ông là Giáo Sư Vật Lý tại
Viện Khảo Cứu Nguyên Tử (the Institute of Nuclear
Studies). Ông tiếp tục nghiên cứu thêm về neutrons
và khảo sát mesons.
Enrico
Fermi qua đời vì bệnh ung thư dạ
dày vào ngày 29 tháng 11 năm 1954, khi đó ông
mới 53 tuổi. 12 ngày trước khi ông từ trần, Ủy Ban
Nguyên Tử Lực Hoa Kỳ (the U.S. Atomic Energy
Commission) đã trao tặng Ông một phần thưởng đặc
biệt 25,000 mỹ kim về công lao của ông, đóng góp vào
công cuộc chế ngự một thứ năng lượng mới.
Trong khi
cả thế giới thương tiếc vì nhà bác học Enrico Fermi
đã qua đời, ông Luigi Einaudi, Tổng Thống nước Cộng
Hòa Ý Đại Lợi, đã gửi điện văn chia buồn tới Bà
Fermi như sau: "Nước Ý cúi đầu và thành kính
tưởng nhớ một nhân vật xuất sắc, đã thấu triệt các
bài toán vật lý nguyên tử và ghi tên mình vào Lịch
Sử bằng sự tiến bộ của Khoa Học"./.
(*) còn gọi là lò phản ứng hạch
tâm, nuclear reactor, réacteur nucléaire |