Những bài cùng tác giả
1- Ý tuởng sung sướng nhất trong đời tôi
Một chiều Chủ nhật cuối tháng Năm năm 1905 đẹp trời nắng ấm
Albert Einstein và anh bạn thân cùng sở làm Michele Angelo Besso dạo chơi
trên đồi Gurten, xa xa dưới chân là thành phố Bern cổ kính hiền hoà, họ bàn
luận trao đổi về bí hiểm ether,
rồi ngay tối hôm đó ông suy nghĩ tính toán và dần dần hình thành thuyết
tương đối hẹp để vài tuần sau gửi đăng trên tạp chí uy tín thời đó Annalen
der Physik. Trong vòng hai năm, công trình này gây được nhiều tiếng vang tán
đồng trong giới hàn lâm và nghiên cứu (đặc biệt bởi Max Planck, người khai
phá ra thuyết lượng tử mà dấu ấn ngày càng in đậm trong khoa học và công
nghệ hiện đại), mặc dầu còn một số người nghi ngại vì khái niệm cách mạng
của thời gian không phổ quát mà co dãn. Nhà vật lý thực nghiệm tiếng tăm
Johannes Stark
mời ông viết một bài tổng hợp về lý thuyết mới mẻ đó và bình luận về những
hệ quả cùng triển vọng. Công việc đòi hỏi nhiều thời gian vì ông vẫn phải
tiếp tục tám giờ mỗi ngày, sáu ngày mỗi tuần làm việc ở Phòng Đăng ký Bằng
Sáng chế của thành phố Bern để nuôi tiểu gia đình gồm hai vợ chồng và con
trai Hans vừa tròn ba tuổi. Nhưng hoàn tất bài tổng hợp đó cũng là phương
cách để Einstein hy vọng tìm được một chức vụ giảng dạy và nghiên cứu đại
học mà ông hằng ước mơ sau khi tốt nghiệp trường Bách khoa Kỹ thuật ở Zürich
(ETH). Chỉ lúc rảnh rang trong giờ cạo giấy ông mới có đôi phút suy tư về
vật lý. Rồi một ngày tháng Mười Một năm 1907 đang ngồi trong Phòng Đăng ký,
Einstein chợt nẩy ra một ý tưởng mà ông coi như mãn nguyện nhất trong đời:
một người rớt từ trên cao xuống không cảm thấy sức nặng của mình.
Theo ông kể, ý tưởng giản dị có vậy thôi, nhưng nó gây một ấn tượng mạnh
khiến tôi vô cùng sửng sốt và dần dà đưa đẩy tôi khám phá ra một lý thuyết
mới về hiện tượng vạn vật hấp dẫn. Để hiểu cái mới lạ ra sao, có lẽ không gì
hơn là trở về thời điểm của cơ học cổ điển khi Galileo Galilei (1564-1642)
phát hiện ra tính chất phổ quát của vật chất rơi trong không trung
bởi sức hút (hấp dẫn hay trọng lực) của trái đất, theo đó nếu vắng một sức
cản nào của môi trường, không khí chẳng hạn, thì mọi vật bất kể khối lượng
lớn nhỏ ra sao, ở chung một chỗ trên cao sẽ rơi xuống hệt như nhau với cùng
một gia tốc.
Chúng ta chưa quên hình ảnh mấy phi hành gia đầu tiên lên cung Hằng năm 1969
thả cái búa tạ cùng mấy sợi lông tơ để thấy chúng quả thực rơi xuống mặt
trăng với cùng một gia tốc vì ở đấy vắng không khí cản trở. Thí nghiệm này
chỉ tượng trưng thôi chứ chẳng gây chút ngạc nhiên nào vì lâu lắm rồi chính
Isaac Newton (1643-1727), vài chục năm sau phát kiến của Galilei, đã chứng
nghiệm tính phổ quát nói trên khi quan sát các chu kỳ dao động giống hệt
nhau của mấy chiếc quả lắc đồng hồ nặng nhẹ khác nhau. Lực hấp dẫn, không
như các lực cơ bản khác (lực của điện-từ hay của các hạt nhân nguyên tử),
mang đặc tính độc đáo là nó áp đặt một gia tốc duy nhất lên mọi vật thể đặt
ở cùng một chỗ, bất kỳ khối lượng lớn nhỏ của vật đó.
Ngoài ra còn thêm một khía cạnh nữa là phương trình căn bản của cơ học F
= m γ bảo cho ta khối lượng m mang một đặc trưng là nó diễn tả
tính trây ỳ hay quán tính của vật thể. Thực thế bất kỳ một lực F nào
(trọng lực, điện-từ lực, lực hạt nhân, lực cơ bắp hay máy móc) khi áp đặt
lên một vật A mang khối lượng m, vật đó sẽ chuyển động với gia tốc
γ. Cũng một lực F ấy khi tác động lên một vật B khác mang khối
lượng ba lần lớn hơn A thì dĩ nhiên gia tốc của B so với A giảm đi ba
lần, nó chuyển động chậm chạp hơn A hay có quán tính lớn gấp ba lần
A. Vậy khối lượng biểu lộ khả năng quán tính của vật thể chống lại sự di
động. Kết hợp hai điều trên, trọng lượng
của một vật (lực mà vật ấy bị lôi hút bởi trọng trường tạo nên bởi vạn vật
trong vũ trụ) lại tỉ lệ thuận với tính trây ỳ của vật đó và tính phổ quát
của Galilei được chứng minh khi ta dùng phương trình cơ bản
của động lực học.
Mối liên hệ sâu sắc giữa trọng lực, gia tốc và quán tính được
Newton miêu tả - bằng ngôn ngữ toán học ngắn gọn và chính xác - trong định
luật vạn vật hấp dẫn. Chủ yếu Newton, tuy không tìm được nguyên nhân tại sao
có sự liên hệ như vậy, nhưng đã nhận ra là khối lượng của một vật A mang ba
đặc trưng: (i) quán tính của A, (ii) A phải phản ứng ra sao khi trọng lực
(tạo ra bởi một vật B khác ở ngoài) tác động lên nó, và (iii) chính vật A
cũng tự nó sinh ra một trọng trường để lôi hút mọi vật khác ở xung quanh
và dĩ nhiên lên vật B. Trong vòng hơn hai thế kỷ sau Newton, nhiều nhà khoa
học, mặc dầu làm việc trong hệ hình (paradigm) của cơ học cổ điển, hầu như
đã quên mất chuyện quan trọng này, chẳng còn mấy ai đào sâu tìm hiểu thêm ba
vai trò tiên nghiệm rất biệt lập của khối lượng.
2- Và Einstein xắn tay mở khoá
Mối liên hệ giữa quán tính, gia tốc và trọng lực mà trực giác Einstein linh
cảm thấy trong một buổi trưa tháng Mười Một năm 1907 phải gói ghém một tín
hiệu nào đó và ông bắt đầu suy tư. Lao tâm khổ tứ, gian nan lặn lội trong
sai lầm rồi tỉnh ngộ, khi vui lúc nản trong tám năm trường
để cuối cùng ngày 25 tháng Mười Một năm 1915 bừng sáng ông rẽ mây chỉ lối
cho nhân loại khai thác một kho tàng tri thức vô ngần sâu sắc, không những
của vật lý mà cũng của vũ trụ quan và triết học nói chung. Ông mường tượng
trước hết ta sẽ quan sát được gì trong một cái thang máy đứt dây và rơi tự
do trong không trung bởi tác động của trọng trường quả đất. Theo tính
chất phổ quát của Galilei, tất cả mọi vật ở trong thang kể cả chính nó đều
rơi như nhau với cùng một gia tốc g, nên so với sàn thang thì chúng
hoặc đứng yên hoặc lướt đi đều đặn với vận tốc cố định. Ngày nay các phi
hành gia lơ lửng trong những hỏa tiễn thám hiểm vũ trụ là hình ảnh quen
thuộc của hiện tượng vô trọng lực. Bất kỳ mỗi điểm trong thang
máy rơi đều có thể coi như một hệ qui chiếu quán tính
trong đó trọng lực như bị xóa đi, phản ánh ý tuởng sung suớng nhất trong đời
Einstein. Thêm bước nữa, ông mường tượng một nơi xa lánh tất cả mọi thiên hà
tinh tú, một không gian ở đó vắng mặt trọng trường. Trong cái không gian vô
trọng lực ấy, có một hộp mà ta đẩy mạnh lên cao với một gia tốc nào
đó, ta thấy mọi vật ở trong hộp bị đẩy rơi ngược chiều xuống thấp
với cùng một gia tốc, giống như hộp bị hút xuống bởi một trọng lực,
điều quá quen thuộc trên xe hơi khi ta bất chợt nhấn mạnh phanh, mọi người
như bị kéo về phía trước. Vậy thì vận chuyển có gia tốc nào khác gì tác động
của trọng trường, có một mối liên hệ mật thiết giữa gia tốc và sức hút của
trọng lực. Những tác dụng của một trọng trường thực có thể như
bị xóa bỏ trong một hệ qui chiếu rơi tự do (gia tốc ≠ 0), hoặc
khi ta khảo sát vận chuyển có gia tốc, một trọng trường ảo như được
tạo ra. Để hiểu lý do tại sao Einstein lại chú tâm đến gia tốc khi
đang viết bài tổng hợp về thuyết tương đối hẹp (trong đó chỉ có sự di chuyển
đều đặn, gia tốc = 0), mời bạn đọc trở về với nguyên lý tương
đối mà Galilei tóm tắt trong một câu ngắn gọn ‘’di chuyển đều đặn
cũng như không’’, hàm ý rằng trong hai hệ quy chiếu một cái đứng yên (tọa độ
x,y,z,t), một cái di động đều đặn với vận tốc v cố định (tọa độ
x’,y’,z’,t’), các định luật miêu tả thiên nhiên đều giống hệt nhau,
hay f(x,y,z,t) = f(x’,y’,z’,t’) hàm số f tượng trưng cho một định luật vật
lý nào đó.
Khi nguyên lý này áp dụng cho điện-từ để diễn tả vận tốc ánh sáng c
không thay đổi trong tất cả các hệ quy chiếu quán tính thì hàm số f chính là
f(x,y,z,t) ≡ (x² + y² + z²) - (ct)². Đó là điểm khởi đầu từ đó
Einstein, Lorentz và Poincaré mỗi người một vẻ đã xây dựng nên thuyết tương
đối hẹp (hay thuyết tương đối đặc biệt, phụ chú 12). Có lẽ
trong tiềm thức, Einstein tự đặt câu hỏi các định luật sẽ thay đổi ra sao
trong trường hợp các hệ quy chiếu di chuyển không đều đặn, và
khi phân tích những điều vừa kể trên về thang máy rơi, ông nhận ra vai trò
quyết định của trọng trường trong sự nới rộng phạm vi không gia tốc
của thuyết tương đối hẹp sang phạm vi có gia tốc của thuyết tương đối
rộng (hay thuyết tương đối tổng quát). Câu ‘’di chuyển đều đặn
cũng như không’’ của Galilei, qua ý tưởng sung sướng nhất trong đời của
Einstein, nay biến thành ’’di chuyển không đều đặn chẳng khác gì tác động
của trọng lực’’đã mở đầu một kỷ nguyên mới cho vật lý, nới rộng thuyết tương
đối đặc biệt sang thuyết tương đối tổng quát để thay thế thuyết vạn vật hấp
dẫn của Newton, định luật cổ điển này chỉ là truờng hợp xấp xỉ gần đúng của
thuyết tương đối rộng vô cùng chính xác. Hơn nữa còn thêm một nguyên nhân
thúc đẩy Einstein mở rộng thuyết tương đối đặc biệt vì ông nhận ra có một
mâu thuẫn giữa thuyết này (theo đó vận tốc của mọi tín hiệu đều có hạn,
kể cả ánh sáng) và luật cổ điển vạn vật hấp dẫn (theo đó trọng lực truyền đi
với vận tốc vô hạn để vạn vật hút nhau tức thì). Vậy bằng cách
nào đó sửa đổi luật hấp dẫn Newton sao cho hòa đồng với thuyết tương đối hẹp
sẽ tự động giải đáp được mâu thuẫn nói trên. Dùng nguyên lý tương
đương giữa gia tốc và trọng lực như một tiền đề, ông suy diễn, dùng dụng
cụ toán học để tìm một định luật mới về hấp dẫn, hơn nữa còn đề xuất
những hệ quả và tiên đoán những hiện tượng kiểm soát đo lường được. Cách
tiếp cận cách tân như vậy khởi đầu từ Galilei - trong đó suy luận, phê phán
bằng lý tính và kiểm chứng bằng thực nghiệm đóng vai trò chủ đạo - là bài
học sâu xa cho hậu thế và tiếp tục làm kim chỉ nam cho tiến trình nghiên cứu
sáng tạo của khoa học ngày nay.
3- Không-thời gian bốn chiều biến dạng từ phẳng sang
cong
3a - Vài điều sơ đẳng về thuyết tương đối hẹp, một giai đoạn tối quan trọng
cần thấu triệt để đi xa hơn nữa trong tiến trình khám phá ra thuyết tương
đối rộng. Einstein khởi đầu bằng chấp nhận nguyên lý tương đối áp dụng cho
điện-từ như một tiền đề - theo đó vận tốc ánh sáng bao giờ cũng cố định và
bằng c, không thay đổi trong bất kỳ các hệ quy chiếu quán tính
nào - mà Michelson và Morley đã chứng tỏ bằng thực nghiệm. Trong hai hệ quy
chiếu, một đứng yên (toạ độ x,y,z,t), một di chuyển đều đặn với bất kỳ vận
tốc v cố định (toạ độ x’,y’,z’,t’), vận tốc ánh sáng không thay
đổi được diễn tả bằng ngôn ngữ toán học là bình phương khoảng cách
s² của ánh sáng truyền đi trong hai hệ quy chiếu phải như nhau hay
bất biến :
s² ≡ (x² + y² + z²) - (ct)² = (x’² + y’² + z’²) - (ct’)². Với
thời gian phổ quát duy nhất của Newton (t = t’) thì s² không sao bất biến
được và đã làm đau đầu bao nhà khoa học. Điểm then chốt của thuyết tương đối
hẹp là các vị Lorentz, Poincaré, Einstein mỗi người một cách đã phát kiến ra
hệ số ρ = 1 ⁄ √(1− v² ⁄c²) ≥ 1 chìa khoá mở đường vô cùng quan trọng
cho cơ học tương đối tính.
Từ tiền đề nguyên lý tương đối và hệ số ρ, Einstein suy ra nhiều hệ quả kiểm
chứng được bằng thực nghiệm, trước hết là phương trình E = ρmc² của
thế kỷ, liên kết năng lượng E khổng lồ với khối lượng m nhỏ bé,
tuyệt vời và đại chúng. Thông điệp thứ hai, sâu sắc và kỳ lạ, là chẳng có
một thời gian tuyệt đối và phổ quát trong một không gian biệt lập với thời
gian. Có muôn ức thời gian (t’ và t dẫu khác nhau nhưng cả hai đều chỉ định
thời gian trong hai hệ quy chiếu) nhanh chậm không đồng đều, thời gian của
mỗi hệ quy chiếu tùy thuộc vào vận tốc chuyển động của hệ ấy. Mỗi thời-điểm
phải gắn quyện với mỗi không-điểm trong một thực tại bốn chiều gọi là thế
giới Minkowski để diễn tả một sự kiện. Khoảng cách thời gian của bạn
khác của tôi, ở mỗi điểm không gian lại gắn liền một đồng hồ đo thời gian
với nhịp điệu tích tắc khác nhau.
Sở dĩ bạn và tôi tưởng rằng chúng ta chia sẻ một thời gian phổ quát, chỉ vì
cộng nghiệp con người trong cái không gian quá nhỏ bé của trái đất so với vũ
trụ, bạn và tôi đâu có xa nhau gì, vận tốc tương đối giữa chúng ta thấm gì
so với vận tốc ánh sáng (v²⁄c² « 1, ρ ≈ 1). Hơn nữa không có mũi tên
thời gian lạnh lùng trôi của trực giác mà cơ học cổ điển Newton thừa nhận,
cũng không có khái niệm hiện tại, cái bây giờ chẳng thể xác định và
giữ vai trò ưu tiên đặc thù nào hết vì cái lúc nào phải đi với cái
ở đâu. Hơn nữa, không gian và vật chất, cái vỏ chứa và cái bị chứa, lại
như hình với bóng trong vũ trụ vô thuỷ vô chung co dãn (thuyết tương đối
rộng, xem phần 4, 5). Đã không có hiện tại thì nói chi đến quá khứ và tương
lai, đó là nội dung triết học quá ư kinh ngạc của thuyết tương đối hẹp và
rộng trong nhận thức về thời gian, nó không phải là mũi tên trôi một chiều
từ quá khứ đến tương lai mà chỉ là một trong bốn thành phần của thực tại
mang tên gọi không-thời gian chẳng cứng nhắc mà đàn hồi. Diễn tả hàm súc
nhất về nhận thức này có lẽ nằm trong bức thư Einstein gửi cho con trai của
Besso
khi nghe tin bạn mất. Bức thư viết: ‘’Vậy bạn đã trước tôi một chút giã từ
cái thế gian lạ lùng này. Nhưng cái đó chẳng nghĩa lý gì. Đối với chúng ta,
những nhà vật lý có xác tín, sự chia cách quá khứ, hiện tại, tương lai chỉ
là một ảo tưởng, dẫu nó dai dẳng đến thế nào’’.
3b- Chúng ta khởi đầu đi từ không gian ba chiều tuyệt đối của Newton để sang
thế giới không-thời gian bốn chiều của Minkowski, cả hai đều phẳng theo
nghĩa hình học Euclid. Nếu khoảng cách vi phân bình phương trong không gian
ba chiều là |dX|² = dx² + dy² + dz² (quỹ tích là mặt cầu Ѕ2
trơn tru) thì bình phương khoảng cách vi phân ds² trong không-thời gian bốn
chiều là ds² = (dx² + dy² + dz²) - (cdt)² (quỹ tích biểu hiện bởi
hình hyperboloïd Ѕ3 trơn tru).
Đó cũng là định lý Pythagoras mở rộng trong bốn chiều với các hệ số ±1
thay vì chỉ có +1 của |dX|². Khi mở rộng quy mô vận chuyển không
gia tốc của thuyết tương đối hẹp (với hình học phẳng của
không-thời gian bốn chiều Minkowski) sang quy mô vận chuyển có gia
tốc của thuyết tương đối rộng, năm 1912 (vâng 5 năm sau cái ý tưởng
sung sướng nhất trong đời, trải qua bao nhiêu gian lao), trực giác của
Einstein cảm thấy cấu trúc hình học phẳng sẽ phải biến dạng sang hình học
cong
vì gia tốc còn hàm nghĩa sự quay, uốn lượn mà mặt phẳng hay hình cầu trơn
tru giản dị không diễn tả được hết cái phức tạp, tế nhị của mọi quỹ đạo
trong thiên nhiên. Để thống nhất các ký hiệu toán dùng trong hình học bốn
chiều phẳng hay cong, thay vì t, x, y, z, ta hãy dùng bốn tọa độ ct ≡
x0, x ≡ x1, y ≡ x2, z ≡ x3, và
định nghĩa một tứ-vectơ xμ là vectơ có bốn thành phần x0,
x1, x2, x3 (thay vì vectơ quen thuộc x
với ba thành phần x,y,z trong không gian ba chiều). Trong hình học phẳng
Minkowski, bình phương khoảng cách ds² = (dx² + dy² + dz²) - (cdt)²
giữa hai không-thời điểm xμ và (xμ +dxμ)
sẽ viết dưới dạng ds² = ημν dxμ dxν, các
chỉ số μ (hay ν) có giá trị 0, 1, 2, 3 và hệ số ημν là những con
số thực như +1 hay −1 (thí dụ ηoo = −1, ηi i = +1, ηoi
= ηio = ηij = 0 với i ≠ j, i hay j là 1,2,3). Ngoài ra
trong ký hiệu ngắn gọn ημν dxμ dxν, ta theo
quy ước
Riemann-Einstein làm tổng hợp các đóng góp của cả hai chỉ số μ,ν.
Làm sao mở rộng sang hình học cong những hệ số ημν quá đơn sơ của
hình học phẳng Minkowski? Einstein nhớ lại những bài giảng (của thầy dạy
toán C.F.Geiser khi ông là sinh viên ở ETH) về mặt cong hai chiều Ѕ2
mà nhà toán và vật lý học trứ danh Karl F. Gauss
đã từng phân tích cấu trúc lồi lõm của mặt quả bóng bầu dục, so sánh với mặt
quả cầu trơn tru. Ngoài ra còn công trình của nhà toán học Bernhard Riemann,
môn đệ của Gauss, đã tổng quát hóa kết quả của thầy từ bề mặt bầu dục hai
chiều sang trường hợp nhiều chiều. Để mở đầu ta hãy xét trường hợp những bề
mặt hai chiều và nhận thấy khoảng cách giữa hai điểm kế cận vi phân trên mặt
quả cầu tròn trơn tru chẳng khác chút nào khoảng cách giữa hai điểm kế cận
vi phân trên mặt phẳng, nếu ta hình dung bao quanh hai điểm trên mặt cầu
bằng trang giấy phẳng tiếp xúc sát với hình cầu, và hai trục tọa độ thẳng
góc trên hình cầu sẽ là hai đường kinh tuyến và vĩ tuyến quen thuộc của trái
đất lý tưởng phẳng phiu tròn trĩnh. Mặt cầu (như mặt phẳng) sẽ bị bao trùm
bởi một mạng lưới gồm muôn vàn hình vuông vi phân, ta chỉ cần hai toạ độ x,
y như trên mặt phẳng để xác định khoảng cách dl giữa hai điểm vi phân
trên mặt cầu, dl² = dx² + dy². Nếu mặt cầu (hay bóng bầu dục) lồi
lõm, ta cũng chẳng cần một tọa độ thứ ba để đo chiều cao hay chiều sâu,
nhưng mạng lưới hình vuông sẽ thành mạng lưới của các hình bình hành bao bọc
mặt cầu lồi lõm này. Định lý Pythagoras của hình bình hành (chữ nhật không
vuông góc) cho ta khoảng cách dl giữa hai điểm vi phân của mặt hai
chiều Ѕ2 lồi lõm: dl² = g11
dx² + 2g12 dxdy + g22
dy². Vì mỗi điểm lồi lõm khác nhau bị bao quanh bởi mỗi hình bình
hành khác nhau (không như trường hợp mặt cầu trơn tru chỉ có một hình vuông
duy nhất ở mọi điểm), nên ba hệ số g11,
g12 và g22
không nhất thiết là con số mà là hàm của x, y trong trường hợp chung
tổng quát, vậy ta có g11(x,
y), g12(x, y), g22(x,y).
Suy từ hai chiều sang bốn, ta thấy với không-thời gian bốn chiều cong uốn
của hình học Riemann, bình phương khoảng cách giữa hai điểm kế cận vi phân
(xμ và xμ + dxμ) phải là
ds²
= gμν(xλ)
dxμ dxν (I)
và ta gọi gμν(xλ),
hàm của tứ-vectơ xλ, là
metric (như mét) đo lường khoảng cách giữa hai không-thời điểm trong
cấu trúc hình học cong bốn chiều. Sự đối xứng toàn diện trong
hoán chuyển μ ↔ ν của
ds² bảo cho ta có tất cả mười
thành phần gμν(xλ)
gộp lại trong một đại lượng duy nhất mà ta gọi là ma trận 4×4 g(xλ),
cũng như những tứ-vectơ xλ, xμ,
xν đều có bốn thành phần x0,
x1, x2, x3. Để tóm tắt, trong giai đoạn đầu
thai nghén của thuyết tương đối rộng, Einstein đặt nền tảng hình học của một
không-thời gian cong trong đó khoảng cách bình phương giữa những sự
kiện vật lý tạo thành những hình hyperboloïd.
Hình này là quỹ tích của tập hợp các điểm cách trung tâm hệ quy chiếu O một
độ dài ds trong thế giới cong bốn chiều, cũng như mặt hình cầu
là quỹ tích của tập hợp các điểm cách trung tâm O một độ dài |dX|
trong thế giới phẳng ba chiều. Cấu trúc cốt lõi của hình học cong chính là
metric gμν(xλ),
một hàm tổng quát của tứ-vectơ xλ.
Không có hệ qui chiếu nào ưu tiên hơn hệ khác để diễn tả các hiện tượng vật
lý, các định luật vật lý đều phải giữ nguyên dạng trong bất kỳ hệ qui chiếu
phi quán tính nào mà ta chọn. Einstein gọi nó là nguyên lý tương đối tổng
quát, mở rộng cái nguyên lý tương đối hẹp của Galilei như đã trình bầy ở
đoạn 2.
3c- Giai đoạn thứ hai vô cùng quan trọng trong tiến trình
xây dựng thuyết tương đối rộng là sự đồng nhất hóa metric gμν(xλ)
của cấu trúc hình học thuần túy với trọng trường của vật lý.
Đó quả thật là một cách mạng trong tư duy khoa học của loài người khi
Einstein gắn bó hai đại lượng cơ học và hình học mà trước ông ai cũng nghĩ
rằng hoàn toàn khác biệt. Nó thể hiện ý tưởng sung sướng nhất đời của
Einstein mà ông gọi là nguyên lý tương đương giữa gia tốc và trọng
trường đã nói ở trên. Thực thế chúng ta hãy xem xét một quan sát viên
trong hệ quy chiếu quán tính của không-thời gian phẳng bốn chiều Minkowski,
người ấy không nhận ra một trọng trường nào cả, mọi vật không rơi mà di
chuyển đều đặn hay đứng yên, và thước đo lường khoảng cách không-thời gian
là metric đơn sơ ημν. Nay người ấy ở trong thang máy rơi với gia
tốc ≠ 0, anh ta thấy hai điều (i) tọa độ không-thời gian sẽ biến đổi một
cách phi tuyến tính với metric gμν(xλ) thay đổi từ
điểm này sang điểm kia rất phức tạp (ii) mọi vật trong thang rơi nhanh, sự
chuyển động có gia tốc này giống như tác động của một trọng trường ảo, vậy
metric gμν(xλ) diễn tả trọng trường theo nguyên lý
tương đương. Cái gắn bó đồng nhất giữa hình học và cơ học, giữa metric và
trọng trường đưa ta đến kết luận là hai vật hút nhau chỉ vì hai vật đó rơi
tìm nhau theo con đuờng trắc địa của hình học cong diễn tả bởi gμν(xλ).
Đường trắc địa
là con đường tối ưu (ngắn hay dài nhất) nối kết hai điểm A và B với nhau, đó
chính là quỹ đạo của hai vật đặt ở A, B chuyển động tự nhiên (chẳng do một
lực hút nhau nào tác động lên chúng cả) trong cái thế giới cong bốn chiều
của không-thời gian. Dưới ánh đèn huyền ảo của thuyết tương đối rộng, hiện
tượng vạn vật hấp dẫn cổ điển ‘cơ bắp’ của Newton nay tỏa hiện như cảnh
tượng cong uốn của không gian để làm vật chất rơi tìm nhau!
3d- Giai đoạn cuối cùng trong quá trình xây dựng thuyết này là Einstein truy
tầm nguồn gốc của cấu trúc không-thời gian cong, nghĩa là khám phá ra phương
trình mà metric hình học gμν(xλ) - nay chính là trọng
trường - phải tuân theo. Newton đã chứng minh chính khối lượng của một vật,
vừa là nguyên nhân tạo ra trọng trường tác động lên vạn vật, cũng vừa là
quán tính diễn tả vật ấy chịu sự chi phối của trọng lực tạo ra bởi các vật
khác nó. Vì năng lượng cũng là khối lượng (m = E/c²) theo
thuyết tương đối hẹp, vậy chính mật độ năng lượng đã tạo ra cái cấu trúc
cong của không-thời gian bốn chiều để vạn vật rơi vào nhau theo những
đường trắc địa. Hơn nữa, mật độ năng lượng phân phối trong
không-thời gian chỉ là một trong mười thành phần của tenxơ năng-xung lượng
Tμν, vậy tenxơ Tμν này mới
chính là nguyên nhân tạo ra metric gμν(xλ) để diễn tả
cấu trúc cong của không-thời gian. Chắc chắn chẳng phải ngẫu nhiên mà cả hai
đại lượng gμν(xλ) và Tμν đều
có đúng mười thành phần đối xứng với hoán chuyển μ↔ ν,
hệ quả của sự nhất quán giữa toán với vật lý
trong cách suy luận và diễn tả.
4- Cổng Rashomon và ống khói nhà máy
Lý thuyết tương đối rộng, hay
định luật vạn vật hấp dẫn của Einstein
có thể tóm tắt trong một câu: Không-Thời gian chẳng cứng nhắc mà đàn hồi,
hình học Minkowski bốn chiều phẳng lặng bị biến dạng thành cong uốn
bởi năng-khối lượng của vật chất. Chính sự phân phối năng lượng đã tạo ra
cấu trúc cong của không-thời gian nhờ đó vạn vật rơi vào nhau như một biểu
hiện của trọng trường chứ không có sức hút nào giữa chúng cả. Ý tưởng vật lý
đã thành hình, vấn đề còn lại của Eintein là tìm ra phương trình toán học để
diễn tả sự biến dạng đàn hồi của thế giới phẳng Minkowski. Tính đàn
hồi của một vật là khả năng vật đó trở lại trạng thái ban đầu khi mất đi dần
lực áp đặt lên nó để làm nó biến dạng, và Robert Hooke,
nhà bác học Anh (1635-1703) đồng thời với Newton, đã đặt nền móng khảo sát
tính chất này với phương trình B = κ T, ký hiệu
B chỉ sự biến dạng đàn hồi và T là lực căng làm
biến dạng vật. Trong trường hợp không-thời gian bị biến dạng bởi
năng-khối lượng, lực căng này chính là tenxơ năng-xung lượng Tμν
như đã phân tích ở trên, hệ số tỷ lệ κ nhỏ thì biến dạng ít, hay 1/κ lớn thì
không-thời gian càng cứng nhắc. Sự tìm kiếm toán tử B làm biến
dạng cấu trúc hình học phẳng kéo dài trong ba năm gian lao, khởi đầu vào
tháng tám năm 1912 khi Einstein từ chức giáo sư Đại học ở Praha để trở về
đảm nhận chức vụ giáo sư thực thụ ở trường cũ Bách khoa công nghệ Zürich
(ETH). Tại đây ông đề nghị cộng tác với bạn xưa cùng trường Marcel
Grossmann, một nhà toán hình học nay là chủ nhiệm khoa toán-lý của ETH trong
việc tìm kiếm toán tử B. Nhà toán Grossmann, không quen thuộc
với hình học không gian phi thuần nhất (chứa đựng vật chất và năng-xung
lượng) mà nhà vật lý Einstein cần đến, bèn tham khảo tài liệu, thư mục và
mách bảo cho bạn những điều cần thiết chứa đựng trong công trình của Riemann
và những nhà toán học kế tiếp như Christoffel, Ricci và Levi-Civita để
Einstein đi từ gμν(xλ) mà xây dựng nên đối tượng toán
học B(gμν(xλ)) ≡ Bμν.
Toán tử Bμν làm biến dạng cấu trúc hình học phẳng
thành cong không đơn sơ chỉ là sự khác biệt gμν(xλ) –
ημν như ta mơ hồ đoán vậy. Thực thế, theo nguyên lý tương đương
giữa trọng trường (vật lý) và gia tốc (hình học) ‘sung sướng nhất đời ông’
trong cái không-thời gian với cấu trúc tổng quát phức tạp gμν(xλ),
ta để thang máy rơi tự do và câu hỏi là trọng trường có thực sự bị xoá bỏ đi
ở mọi điểm trong cái thang rơi có gia tốc? Câu trả lời là sự xóa bỏ
trọng trường bởi gia tốc không trọn vẹn, hãy còn chút đỉnh thặng dư vì thực
ra hai điểm cách nhau vi phân không rơi đồng nhất như hệt nhau với
cùng một gia tốc. Điều này thể hiện qua việc metric gμν(xλ)
thay đổi từ điểm này sang điểm kia. Cái thặng dư gia tốc đó có thể mường
tượng qua thí dụ thủy triều của nước biển sớm tối trào lên và rút đi. Thực
vậy nước biển ở phần bán cầu trái đất gần mặt trăng (mặt trời) bị
‘rơi kéo’ vào mặt trăng (mặt trời) với gia tốc khác với gia tốc của
nước biển ở bán cầu đối nghịch xa mặt trăng (mặt trời), và sự khác
biệt kép ấy chính là nguyên nhân của thủy triều. Vậy làm sao tính cái thặng
dư gia tốc ở mỗi thời-không điểm? Mà nói đến sự khác biệt của gμν(xλ)
giữa hai điểm vi phân xλ và xλ + dxλ là nói
đến đạo hàm, vậy ta không ngạc nhiên khi thấy đạo hàm của gμν(xλ)
(như hệ số Christoffel và tenxơ Ricci Rμν diễn tả
độ cong của hình học Riemann) xuất hiện trong Bμν,
và ông tìm thấy Bμν = Rμν
– (½)Rgμν, đó là chặng đường vất vả nhất kéo dài ba
năm.
Giai đoạn chót là xác định được hệ số κ trong phương trình Bμν
= κTμν. Để tìm nó, định luật hấp dẫn cổ
điển của Newton được Einstein khai thác như một dạng xấp xỉ gần đúng
của phương trình R00
– (½)Rg00
= κT00.
Thực thế, thành phần T00
(phụ chú 23) vì tỷ lệ thuận với mật độ năng lượng E =
mc2 nên cũng tỷ lệ với mật độ khối lượng m trong
thể tích của một vật nào đó (trái đất chẳng hạn) và chính m tạo ra
gia tốc Gm/R2
áp đặt lên các vật khác (ở cách nó một đoạn không
gian R)
để làm chúng vận hành, và ông xác định được
hệ số κ = 8πG/c4, G là hằng số Newton của trọng lực. Ngày
25 tháng Mười Một năm 1915, nhà vật lý Einstein sau ba năm lăn lộn với hình
học đã trao tặng cho nhân loại thuyết tương đối rộng mà ngày nay mang đầy
tính thời sự khoa học nóng hổi từ nghiên cứu cơ bản (Vũ trụ và sự hình
thành, Big bang, Big crunch, Lỗ đen, Siêu dây, Năng lượng và Vật chất tối,
Chân không lượng tử, Lý thuyết Thống nhất Toàn thể) đến muôn vàn ứng dụng
(Hệ thống Định vị Toàn cầu GPS
mà chúng ta dùng hàng ngày trong các phương tiện di chuyển là một thí dụ).
Mời bạn đọc chiêm ngưỡng phương trình Einstein mà vế trái mô tả hình học
không-thời gian bốn chiều trong đó vận hành vạn vật, còn vế phải là vật chất
xây dựng nên cái cấu trúc cong uốn của không-thời gian:
Rμν
– (½)R gμν = (8πG/c4)Tμν (II)
Trong mười thành phần của phương trình Einstein, chỉ có
thành phần 00
là tương hợp với định luật cổ điển vạn vật hấp dẫn của
Newton (sau khi ta áp dụng phép tính xấp xỉ gần đúng), còn chín cái khác là
mới. Thông điệp vật lý gói ghém trong phương trình trên có thể tóm tắt như
sau: khối lượng áp đặt không-thời gian phải cong đi, còn không-thời gian chi
phối bắt khối lượng phải chuyển động ra sao. Sự vận hành của vật chất (ánh
sáng cũng là vật chất) bởi trọng trường không do một lực cơ bắp nào hết mà
thực ra sự di chuyển đó lại ‘trây lười nhất’ theo đường trắc địa trong một
không-thời gian bị cong bởi sự hiện hữu và phân phối của vật chất. Đáp lại,
vật chất và năng lượng luôn luôn biến chuyển của chúng cũng tác động tới độ
cong của không-thời gian, và cứ thế tiếp diễn liên hồi vũ điệu giữa cơ học
và hình học. Mật độ năng-xung lượng càng lớn ở đâu thì không-thời gian cong
uốn càng nhiều ở đấy, đó là gốc nguồn của lỗ đen, một không-thời gian tận
thế ở đó bất kỳ vật chất nào, kể cả ánh sáng và tín hiệu thông tin, khi đi
gần đều bị hút chặt vào chẳng sao thoát khỏi. Mời bạn đọc coi bức thư ông
gửi ngày mồng 9 tháng giêng năm 1916 cho Karl Schwarzschild (nhà vật lý
thiên văn Đức đang hành quân ở mặt trận Nga-Đức trong thế giới đại chiến
1914-1918, vào những giờ phút ngừng bắn đã đầu tiên giải được chính xác
phương trình của thuyết tương đối rộng mà Einstein vừa công bố tháng trước):
“cái đặc điểm của lý thuyết mới này là không gian và thời gian tự chúng
chẳng có tính chất vật lý gì cả. Nói đùa thôi, giả thử mọi vật trên đời biến
mất, thì theo Newton ta hãy còn một không gian rỗng tuếch phẳng lặng mênh
mang và mũi tên thời gian vẫn lặng lẽ trôi, nhưng theo tôi thì tuyệt nhiên
chẳng còn chi hết, cả không gian lẫn thời gian và vật chất!”
Thực là một cuộc cách mạng về tư duy
mà Einstein mang đến cho nhân loại: chính vật chất
trong đó có da thịt tâm tư con người xây dựng ra vũ trụ. Vật chất và
không-thời gian chỉ là hai khía cạnh của một bản thể duy nhất, cái này sinh
cái kia, không có cái này thì cũng chẳng có cái kia. Nhà vật lý Nhật bản
Yoichiro Nambu
qua bức tranh nửa trào lộng nửa trầm tư minh họa vế trái
phương trình Einstein bằng cổng Rashomon xa xưa của một thoáng không gian
thanh thoát bên bờ suối, còn vế phải bên kia cầu vương vấn trong cảnh trần
ai bởi khói than nhà máy phản ánh vật chất nặng nề!

Ngay sau khi khám phá ra phương trình (II) của thuyết tương
đối rộng, Einstein đề xướng hai phương thức để kiểm chứng thuyết đó bằng
thực nghiệm.
Để đánh giá phần nào gia tài tri thức mà Einstein trao cho nhân loại,
mời bạn đọc nhớ lại vào cuối thế kỷ 19, khoa học thời ‘tiền tương đối’ được
hiểu như sau : Không gian ba chiều như một sự thực tiên nghiệm ‘trời cho’,
một sân khấu lạnh lùng hoàn toàn biệt lập với vật chất thao diễn trong đó.
Cấu trúc hình học của không gian phẳng (tổng cộng ba góc hình tam giác bằng
180 độ) đã được khai thông bởi các nhà hiền triết Hy lạp Euclid, Pythagoras
từ hơn hai thiên niên kỷ. Thời gian như một mạch đập ‘hiện sinh’ của vũ trụ,
một mũi tên lặng lẽ trôi vô thủy vô chung. Vật chất là một thực thể thường
trực vĩnh viễn không sinh không hủy, và sau hết Lực tác động tức thời lên
vật chất làm chúng vận hành. Einstein đã cho ta một nhận thức khoa học và
triết học khác: bước chuyển thời gian là một ảo tưởng, chỉ có một thực tại
duy nhất không-thời gian bốn chiều gắn bó với nhau, chẳng có cái ‘bây giờ’.
Vạn vật phù du, vô thường hằng, không ngừng đổi biến. Hơn nữa toàn bộ Không
gian, Thời gian, Lực, Vật chất chẳng sao tách biệt, cặp không-thời gian (cái
vỏ chứa) và cặp lực-vật chất (cái được chứa) chồng chéo liên kết với nhau,
cấu trúc không phẳng mà cong uốn của không-thời gian (cái vỏ) được xây dựng
bởi chính cái nội dung vật chất chứa đựng trong vỏ. Năng lượng là gốc
nguồn chung cho tất cả, từ đó vật chất, lực, không gian, thời gian được tạo
dựng nên.
5-Hiện tình và triển vọng
Dẫu mang quá khứ huy hoàng, hoạt động khoa
học nghiên cứu ở Âu châu - quê hương của Lượng tử và Tương đối, hai trụ cột
của vật lý hiện đại mà hơn ai hết Max Planck và Albert Einstein đóng góp vào
- đã phần nào bị lu mờ trong nửa thế kỷ sau Đệ nhị Đại thế Chiến 1939-1945
thảm khốc và phân hoá đông-tây. Năm nay 2008 mở đầu một bước ngoặt đánh dấu
sự phục hưng của nền vật lý ở châu lục này với hai sự kiện nổi bật: trên
trời có vệ tinh Planck được phóng lên không trung với kính viễn vọng tân kỳ
để quan sát đo lường ánh sáng tàn dư từ thủa Nổ lớn (Big bang) xẩy ra cách
đây khoảng 13.7 tỷ năm với chi tiết chưa từng đạt, duới sâu hơn trăm thước
trong lòng đất có máy gia tốc hạt LHC (Large Hadron Collider) ở CERN[33]
với chu vi 27 cây số, khắp năm châu duy nhất chỉ có máy này đạt tới năng
lượng cực cao làm đầu tầu trong công cuộc khám phá, đào sâu tìm hiểu, thống
nhất các định luật cơ bản tận cùng của vạn vật.
Mồng Mười tháng Chín năm 2008, máy gia tốc LHC sẽ khởi động và chương trình
khám phá ưu tiên là việc săn tìm hạt cơ bản Higgs,
hạt tạo ra khối lượng cho vật chất, đề tài mũi nhọn của vật lý hiện đại,
chìa khóa mở đường cho sự thống nhất hoà quyện Lượng tử với Tương đối rộng.
Xin nhắc lại khối lượng là cơ nguyên khởi đầu của không-thời gian, của vạn
vật, của vũ trụ. Không có khối lượng tức năng lượng thì chẳng còn gì hết.
Nền tảng của mô hình chuẩn là sự hiện hữu thiết yếu của hạt Higgs vô hướng
tràn ngập không gian để cung cấp khối lượng cho tất cả các hạt khác khi
tương tác với nó. Lý thuyết và thực nghiệm, tay trong tay vươn tìm
những bến bờ xa xăm sâu thẳm nhất của tri thức khoa học, tiếp nối khát vọng
chung của con người xưa nay không ngừng tìm hiểu thiên nhiên và bản thể của
các hiện tượng. Hơn bao giờ hết và càng ngày càng rõ nét là cách tiếp cận
cách tân của hai thế giới liên thông mật thiết: vĩ mô của vũ trụ bao la diễn
giải bởi thuyết Tương đối rộng và vi mô của hạt cơ bản diễn giải bởi thuyết
Lượng tử. Vệ tinh Planck và máy gia tốc hạt LHC theo thứ tự là hai công cụ
thực nghiệm hiện đại sẽ khởi động năm nay 2008 trong công cuộc đo lường, tìm
hiểu, khám phá, giải thích một cách nhất quán những bí ẩn của hai thế giới
vĩ mô và vi mô nói trên. Ngành khoa học thống nhất và bổ túc lẫn nhau của
hai thế giới đó mang tên gọi thiên văn-vật lý hạt (astro-particle physics).
Xa xưa thiên văn ngụ ý ngắm nhìn quan sát thụ động các tinh tú vận chuyển,
thêm bước nữa là thiên văn-vật lý tìm hiểu các hiện tượng phóng xạ và hình
thành biến đổi của các thiên hà, tinh thể qua các định luật phổ quát của vật
lý, ngày nay thiên văn hầu như đồng nghĩa với vũ trụ học và gốc nguồn của nó
(tinh nguyên học) mà cốt tủy là thuyết tương đối rộng. Thuyết này như nàng
Bạch Tuyết sau hơn nửa thế kỷ thiu thiu ngủ đã bừng tỉnh cùng ông hoàng
Lượng Tử cất cánh vươn xa tìm biên giới của tri
thức.
5a- Mấy bước ban đầu :
Einstein là người trước tiên nhận ra cái toàn
bộ chẳng sao tách biệt giữa vật chất-lực (cái bị chứa) và không-thời gian
(cái vỏ chứa). Tất cả chỉ là một mà ông gọi là vũ trụ và khoa học nghiên cứu
cái toàn bộ đó mang tên là vũ trụ học mà nguyên tắc - được ông xây dựng
trong một công trình ra đời tháng Hai năm 1917- vẫn tiếp tục làm nền tảng
rọi sáng cho mãi đến ngày nay, mặc dầu thay đổi nhiều về chi tiết và mô hình
ban đầu. Trước hết ông nhận thấy phương trình (II) của thuyết tương đối rộng i>không có nghiệm số nào tương ứng với một vũ trụ vĩnh cửu bất biến với
thời gian mà định kiến ngàn xưa đều tin chắc như vậy, ngay cả với con người
cấp tiến như Einstein! Ông đành thêm vào vế trái phương trình (II) một số
hạng Λ gμν (ông gọi Λ > 0 là hằng số vũ
trụ vì nó chẳng có hệ quả cục bộ nào ở bất kỳ các quy mô lớn hay nhỏ) để
có được một nghiệm số diễn tả vũ trụ ấm êm tĩnh lặng, tuy cong về
không gian nhưng lại phẳng (không thay đổi) với thời gian.
Nhưng chỉ vài năm sau đó, các nhà thiên văn vật lý W. de Sitter (Hà Lan), A.
Friedmann (Nga) và G. Lemaître (Bỉ) khi xem xét toàn diện mười thành phần
của phương trình (II) chứng minh là vũ trụ không những cong về không gian mà
cũng phải cong cả với thời gian, vậy vũ trụ hoặc dãn nở hoặc co nén chứ
không tĩnh tại. Hỗ trợ quyết định cho phần lý thuyết trên xẩy ra năm 1929
khi nhà thiên văn Mỹ E. Hubble đo lường quang phổ ánh sáng của các thiên hà
và phát hiện chúng đồng loạt có tần số sóng bị giảm đi so với quang phổ đo
trên trái đất. Tương tự như hiệu ứng Doppler trong âm thanh, theo đó tiếng
sáo phát ra trên tàu chạy xa bến thì người đứng yên trên bến nghe sáo trầm
hơn, ngược lại nếu tàu tiến gần vào bến, tiếng sáo nghe bổng hơn.
Vì quan sát thấy tần số ánh sáng giảm, Hubble suy ra là khoảng cách từ chúng
ta tới các thiên hà tỷ lệ thuận với tốc độ
của chúng,
càng ở xa vận tốc càng lớn. Như vậy vũ trụ không còn tĩnh lặng mà dãn nở như
quả bóng khi ta bơm hơi vào, một thực tại chẳng sao chối cãi. Sự kiện thiên
văn quan trọng hàng đầu này ngày nay được xác định rất vững vàng bởi nhiều
đo lường khác, do đó hằng số Λ (mà Einstein đưa ra như một tiên đề để giữ
tĩnh lặng cho vũ trụ) chẳng còn cần thiết nữa khiến ông coi đó là sai lầm
lớn nhất trong đời mình. Nhưng cái gì làm vũ trụ dãn nở? Nhiều nhà vật lý
cho rằng có thể chính là hằng số Λ. Ai ngờ cái sai lầm hơn nửa thế kỷ
trước, nay có thể trở nên một thành viên chủ yếu chiếm ngự đến 70 % năng
lượng của hoàn vũ dưới cái tên mới là năng lượng tối để làm
dãn nở vũ trụ, cái năng lượng tối đầy bí ẩn này chưa ai biết là gì tuy nhiên
nó chẳng phải do vật chất tạo thành mà lại mang đặc tính năng lượng của
chân không.
Việc tiên đoán sự dãn nở của vũ trụ thực là một kỳ công của thuyết tương đối
rộng.
5b- Vụ Nổ lớn (Big Bang):
Đo lường được vận tốc dãn nở (hằng
số Hubble) của vũ trụ ngày nay, bạn hãy mường tượng thời gian lần ngược trở
lại tựa như một cuốn phim chiếu giật lùi và thấy các thiên hà càng xa xưa
bao nhiêu lại càng sát gần nhau bấy nhiêu khiến cho vũ trụ trước kia nhỏ hơn
và phải có lúc xuất phát từ một khoảng không gian li ti. Ta suy ra khoảng
13.7 tỷ năm trước có một hiện tượng kỳ dị theo đó, từ một nguồn năng lượng
và nhiệt độ vô hạn, nén ép trong một không gian cực kỳ nhỏ bé đã xẩy ra vụ
Nổ lớn làm không gian dãn nở rồi lạnh dần để hình thành vũ trụ như ta quan
sát ngày nay với hàng trăm tỷ thiên hà trong đó có giải sông Ngân và trái
đất xanh lơ của chúng mình. Nơi xảy ra vụ nổ lớn chính là chỗ bạn đang ở,
cũng như ở bất cứ nơi đâu trong vũ trụ bao la vì ở thời-điểm ấy, mọi chỗ
ngày nay tách biệt hàng tỷ năm ánh sáng thực ra đã cùng chụm lại ở cái
không-điểm kỳ dị ấy,
chẳng có một trung tâm vũ trụ ban đầu nào cả. Theo G. Gamow, phương pháp
tinh tế nhất để kiểm chứng bằng thực nghiệm mô hình Big Bang là quan sát
được hiện tượng bức xạ nền,
tức là sóng điện từ vi ba tràn ngập không gian. Đó là ánh sáng rơi rớt lại
từ thuở Big Bang (nhiệt độ 1032 độ ban đầu cách đây khoảng 13.7
tỷ năm, nay nguội dần chỉ còn 2.735 độ K tuyệt đối). Bức xạ nền có hệ quang
phổ của một vật đen,
đối tượng nghiên cứu đã đưa Planck đến giả thuyết lượng tử.
Mười năm qua chứng kiến nhiều phát triển trong sự hiểu biết của chúng ta về
mô hình chuẩn vũ trụ mang tên gọi ΛCDM
mà nòng cốt là vụ Nổ lớn.
5c- Lỗ đen:
Ở nơi đâu
tập trung mật độ năng-khối lượng càng lớn thì sự biến dạng đàn hồi của
không-thời gian càng nhiều ở đó, sự biến dạng tăng trưởng cho đến khi tính
dẻo dai của nó bị đứt, tựa như cao su nếu bị kéo quá căng sẽ hết co dãn đàn
hồi. Khi trọng trường lớn vô hạn, sự thay đổi trạng thái từ dẻo dai sang đứt
vỡ làm xuất hiện các không-thời điểm kỳ dị, một hiện tượng tổng quát của
thuyết tương đối rộng. Đại lượng đo sự biến dạng của không-thời gian là h00(x)
≈ hii (x) ≈ 2GM/(c2x), phụ chú 27. Khi
2GM/(c2x) ≈ 10–6 như trường hợp mặt
trời, ta có thể dùng phép tính toán xấp xỉ gần đúng như Einstein đã dùng để
giải đáp hiện tượng tuế sai của Thủy tinh và tiên đoán độ cong của ánh sáng
khi đi gần mặt trời (phụ chú 32). Nhưng khi trọng trường cực mạnh như trường
hợp lỗ đen và sao neutron, ta không thể dùng phép tính gần đúng nói trên nữa
mà phải xét toàn diện chính xác phương trình phi tuyến tính của Einstein.
Sao neutron (ở đó electron và proton nén ép thành neutron và neutrino) có
mật độ khối lượng vô cùng lớn, đường kính sao R chừng 10 km mà khối
lượng M lại lớn như mặt trời, 2GM/(c2R)
≈ 0.4 (con số này so với 10–9 của trái đất), không gian trên sao
neutron cong đến nỗi tổng cộng ba góc hình tam giác bằng 250 độ, nhịp độ
tích tắc đồng hồ chậm bằng 78% so với đồng hồ chúng ta trên trái đất. Xin
nhắc lại mô hình diễn tả cuộc đời của các thiên thể là tiến trình tổng hợp
nhiệt hạch của chúng, nôm na là sự phân rã tiêu thụ nhiên liệu hạt nhân
nguyên tử của chúng. Quá trình đó đưa đến cấu trúc nhiều vỏ bao quanh nhau
của thiên thể, giống như củ hành với nhiều màng lớp. Nếu khối lượng của vì
sao đủ lớn, tác động của trọng trường khá mạnh làm tâm lõi của nó bị nén ép
xô vào nhau và thu nhỏ lại, còn vỏ ngoài thì bùng nổ tung bay và xuất hiện
siêu sao mới (supernova) bừng sáng trong khoảnh khắc. Tùy theo khối lượng
lớn bao nhiêu ban đầu, thiên thể này vào cuối đời (khi hạt nhân nguyên tử
của nó bị phân rã hết) sẽ biến thành hoặc sao neutron hoặc lỗ đen, diễn tả
trạng thái thiên thể bị co ép lại trong một không gian cực nhỏ. Lỗ đen là
kết quả của sự sập đổ liên tục của một thiên thể có khối lượng lớn
tới hạn, sự sập đổ đó không dừng lại khi hình thành sao neutron mà tiếp tục
tới cùng để xuất hiện một không-thời gian kỳ dị (chân trời lỗ đen, 2GM/(c2R)
= 1) ở đó từ vật chất đến ánh sáng và tín hiệu thông tin chẳng cái gì thoát
ra khỏi.
Ngoài mật độ khối lượng M vô cùng lớn, lỗ đen còn mang điện tích Q
và tự quay tròn quanh trục của mình với momen J, ba thông
số (M,Q, J) xác định tính chất vật lý của nó. Khi nối kết với vật lý
lượng tử, S. Hawking và J.D. Bekenstein khám phá ra là lỗ đen cũng phóng xạ
nhiệt ra ngoài chân trời tối kín của nó như một vật đen và mang entropi luôn
tăng trưởng, một liên hệ sâu sắc giữa vật lý cổ điển (trọng trường, nhiệt
động học) và lượng tử.
5d- Đâu rồi phản vật chất ?
Sự hiện hữu của
phản vật chất (do Paul A.M. Dirac dùng suy luận mà tiên đoán và C. Anderson
khám phá ra sau đó) là hệ quả sâu sắc nhất của bản giao hưởng tuyệt vời giữa
hai cột trụ của vật lý hiện đại: tương đối hẹp và lượng tử.
Máy chụp hình nổi PET (Positron Emission Tomography) trong y
học ngày nay là một ứng dụng trực tiếp của hạt positron (phản
electron) để rọi sáng chi tiết vi mô trong não
bộ. Có vật chất thì cũng phải có phản vật chất, khi tụ hội
chúng tự hủy để biến thành năng lượng, và ngược lại nếu đủ năng lượng thì
các cặp vật chất-phản vật chất được tạo ra và đó là chuyện thường xuyên xẩy
ra trong các máy gia tốc hạt. Vũ trụ lúc nổ lớn chỉ chứa đựng duy nhất năng
lượng với nhiệt độ vô cùng cao, từ đó khi nguội dần đã nẩy sinh ra những cặp
vật chất-phản vật chất. Chúng tương tác, biến chuyển, phân rã tuân theo bốn
định luật tương tác cơ bản của vật lý: mạnh, yếu, điện từ, hấp dẫn. Số lượng
vật chất và phản vật chất phải bằng nhau, chẳng cái nào nhiều hơn cái nào vì
vài phút sau Big Bang từ năng lượng thuần khiết ban đầu, chúng đều được hình
thành theo từng cặp. Bức xạ nền - mà COBE, WMAP và sau hết vệ tinh Planck
năm nay sẽ khởi động đo lường với chi tiết chưa từng đạt - chẳng bảo cho ta
ánh sáng tàn dư đó chính là sản phẩm của sự va chạm cách đây 13.7 tỷ năm
giữa vật chất và phản vật chất nẩy sinh từ năng lượng cực lớn sao? Mà vật
chất chính là nguyên tử, khí và thiên thể giăng đầy vũ trụ ngày nay, còn
phản vật chất lại chẳng thấy tăm hơi, tại sao vũ trụ
ngày nay lại chỉ có vật chất? Đó là một bí
ẩn của mô hình Big Bang vì ba lực (mạnh, điện từ và hấp dẫn) trong bốn tương
tác nói ở trên đều tuân theo luật đối xứng vật chất-phản vật chất (đối xứng
CP, nói theo ngôn từ của lý thuyết chuẩn các hạt cơ bản), không có sự dị
biệt giữa chúng. Chỉ tương tác yếu (ba thí dụ điển hình của tương tác này:
sự tổng hợp nhiệt hạch trong tâm mặt trời và các tinh tú, sự phân rã β của
các hạt nhân nguyên tử và hạt neutrino) mới vi phạm phép đối xứng CP, theo
đó tương tác yếu của phản vật chất và của vật chất không giống y hệt nhau mà
khác đôi chút. Sự khác biệt đó được diễn giải hoàn hảo trong mô hình
chuẩn hạt cơ bản và được kiểm chứng vô cùng chính xác bằng thực nghiệm.
Nhưng sự vi phạm nhỏ của phép đối xứng vật chất-phản vật chất trong các
phòng thí nghiệm trên trái đất không giải thích nổi về mặt định lượng tại
sao trong vũ trụ ngày nay vật chất lại áp đảo toàn diện phản vật chất, tại
sao cái này lại biến đi ngay từ trong trứng nước thời Nổ lớn? Trong việc
diễn giải sự vi phạm đối xứng vật chất-phản vật chất, tại sao mô hình chuẩn
hạt cơ bản thành công mà mô hình chuẩn vũ trụ Big Bang lại thất bại? Đó là
đề tài nghiên cứu ưu tiên của LHC cùng với sự săn tìm hạt cơ bản Higgs (phụ
chú 34).
5e- Sóng trọng trường :
Nếu điện thoại và máy vi tính di động tân kỳ là tảng băng nổi của sóng điện
từ trường với bốn phương trình Maxwell
mà công nghệ thông-truyền tin hiện đại khai thác tuyệt vời, thì sự hiện hữu
của sóng trọng trường là hệ quả tất yếu của mười phương trình Einstein trong
thuyết tương đối rộng, minh họa tính dẻo đàn hồi của không-thời gian. Tiến
trình khai thác và ứng dụng của sóng trọng trường là cả một chân trời kỳ
diệu đang hé mở. Thời cổ điển truớc Einsein mọi người mặc nhiên chấp nhận
khái niệm tiên nghiệm của không-thời gian cứng nhắc chẳng chút nào liên đới
đến vật chất-năng lượng chứa đựng ở trong. Einstein qua thuyết tương đối
rộng chỉ dẫn cho ta một nhận thức khác hẳn: sự phân phối năng-khối lượng vật
chất (thí dụ hệ thống hai lỗ đen dao động và hút nhau) không những bẻ cong
cấu trúc không-thời gian mà sự biến dạng đó lại truyền đi vô tận khắp nơi
dưới dạng sóng với vận tốc c của ánh sáng. Vậy sóng trọng trường phản
ánh sự phân phối dao động của vật chất và sự biến dạng đàn hồi của
không-thời gian, một đặc trưng của thuyết tương đối rộng. Tín hiệu để nhận
diện và đo lường được sóng trọng trường là sự thay đổi δL của khoảng cách L
giữa hai vật bị nhiễu loạn bởi sóng đi qua nó, cái thay đổi δL/ L đó quá nhỏ
khoảng 10–22 mà các giao thoa kế như Ligo (Mỹ), Virgo và Geo (Âu
châu), Tama (Nhật) cùng Lisa (quốc tế) đang và sẽ tích cực đo lường.
5f- Chân không lượng tử và sự dãn nở vũ trụ với
hằng số Λ:
Chân không lượng tử (quantum vacuum), viết gọn thành ng
được định nghĩa như trạng thái cơ bản tận cùng của vạn vật, nó vô hướng,
trung hòa, mang năng lượng cực tiểu trong đó vật chất, tức là tất cả các
trường lượng tử kể cả điện từ, đều bị loại bỏ hết. Nhưng không phải
vì Không chẳng chứa trường vật chất nào mà năng lượng của nó bằng 0.
Theo nguyên lý bất định Heisenberg, năng lượng của bất cứ trạng thái vi mô
nào là chuỗi (1/2)hν, (3/2)hν, (5/2) hν...chứ không
phải là 0hν, 1hν, 2hν...Cũng dễ hiểu thôi, nguyên lý
bất định bảo ta nếu xung lượng |k| được xác định rõ rệt bao nhiêu thì
vị trí trong không gian |x| lại mơ hồ rối loạn bấy nhiêu, vậy năng
lượng tối thiểu ε = (1/2) hν ≠ 0 chính là một thỏa hiệp tối ưu bình
đẳng cho cả hai bên |k| và |x|. Thực thế, nếu ε =
0, |k| = 0, vậy |x| không sao được xác định nổi. Phản ánh
nguyên lý này, thế giới vi mô luôn luôn dao động ngay ở nhiệt độ tuyệt đối
thấp nhất (năng lượng cực tiểu) và đó là ý nghĩa của sự thăng giáng lượng
tử (quantum fluctuation). Thang mức vi mô nói chung là cả một vũ đài náo nhiệt và hỗn loạn, ‘vạn
vật sinh hủy, hủy sinh, ôi phí phạm thời gian’ như nhà vật lý kỳ tài Feynman
từng hài hước. Không gian trống rỗng tưởng như yên tĩnh phẳng lặng thực ra
chỉ là tổng quan trung bình của một thực tại vô cùng phong phú và sôi sục ở
mực độ sâu thẳm, tựa như biển hiền hòa nhìn phiến diện trên bề mặt
phẳng mượt vậy mà dưới lòng sâu đang diễn ra một
đợt sóng ngầm dao động liên hồi. Bởi năng
lượng cực tiểu khác 0 và vì tần số ν có thể là bất cứ con số nào từ 0
đến vô tận nên Không có năng lượng phân kỳ
khi ta lấy tích phân tất cả các mốt dao động. Tuy chẳng sao định lượng nổi
(vì năng lượng phân kỳ), nhưng chân không lượng tử vẫn có thể biểu hiện tác
động của nó qua hiệu ứng Casimir,
một đặc trưng quan sát đo lường được. Chính vì vô hướng, trung hòa lại có
năng lượng vô hạn, nên chân không lượng tử mang ẩn dụ một hư vô mênh
mang tĩnh lặng, từ đó do những kích thích nhiễu loạn của năng lượng trong
Không mà vật chất (cùng phản vật chất) được tạo thành để rồi chúng tương
tác, biến đổi, phân rã rồi trở về với Không, cứ thế tiếp nối
bao vòng sinh hủy! Chân không lượng tử chính là trạng
thái cơ bản, cội nguồn và chốn trở về cũng như ra đi của vạn vật.
Nó không rỗng tuếch chẳng có gì mà là cái thế lắng
đọng
của tất
cả.
Chân không-Vật chất-Không gian-Thời gian chẳng sao
tách biệt, đó là hệ quả của Tương đối (hẹp và rộng) hợp phối cùng Lượng tử!
Nhưng năng lượng cực kỳ lớn của chân không lượng tử (tai
họa chân không) lại vượt xa quá nhiều mật độ năng lượng tối
làm dãn nở vũ trụ mà các nhà thiên văn ước lượng bằng cách đo lường gia tốc
của các siêu sao mới. Xin nhắc lại năng lượng tối mang đặc
tính của chân không (với hằng số Λ vô hướng, xem 5(a) và các phụ chú 36,
41). Điều này minh họa sự mâu thuẫn cơ bản giữa hai trụ cột của vật lý hiện
đại Lượng tử và Tương đối rộng.
6- Tạm kết
Hai thuyết Lượng tử và Tương đối rộng đều cần thiết để diễn
tả các hiện tượng vật lý khi hai thế giới vi mô và vĩ mô cận kề chẳng còn
tách biệt như trong trung tâm sâu thẳm của lỗ đen, trong trạng thái vũ trụ ở
kỷ nguyên Planck (giây phút ban đầu của Big bang với nhiệt độ kinh hoàng,
không gian độ dài Lp cực nhỏ, năng lượng Ep cực lớn,
phụ chú 45), hoặc trong các máy gia tốc hạt năng lượng cao mà LHC là điển
hình tốt đẹp nhất. Ở những điều kiện cực độ ấy, các định luật của trọng
trường và của lượng tử không tương thích với nhau, hình học không-thời gian
cong uốn trơn tru của thuyết tương đối rộng lại xung đột sâu sắc nhất với
cái sôi động, thăng giáng lượng tử, các phương trình của hai thuyết khi kết
hợp cho ra những đáp số vô hạn, phi lý. Ngoài ra ở kỷ nguyên Planck, cường
độ của trọng lực (không đáng kể ở nhiệt độ và năng lượng bình thường) không
còn nhỏ nữa mà tương đương với cường độ của ba lực cơ bản khác: điện-từ,
mạnh và yếu. Ba lực này thành công tuyệt vời trong sự hòa đồng với cơ học
lượng tử và như vậy chúng diễn tả chính xác và nhất quán mọi vận hành từ thế
giới vi mô hạ nguyên tử đến thế giới vĩ mô của các thiên thể trong vũ trụ
bao la. Theo thứ tự, sự phối hợp với lượng tử của ba lực cơ bản trên mang
tên Điện Động lực học Lượng tử (QED, Quantum Electro-Dynamics), Sắc Động lực
học Lượng tử (QCD, Quantum Chromo-Dynamics) và Điện-Yếu Lượng tử (Quantum
Electro-Weak Interaction), tóm tắt trong Mô hình Chuẩn (Standard Model) của
hạt cơ bản với không dưới hai chục giải Nobel trong khoảng 30 năm gần đây.
Có thể nói rằng điện động lực học lượng tử là nền tảng phát triển kỳ diệu
của công kỹ nghệ thông-truyền tin hiện đại với vi điện tử, quang điện tử,
spin-điện tử.
Trong khi đó, luật hấp dẫn lại mâu thuẫn với lượng tử.
Nguyên nhân sự khác biệt giữa ba lực trên với trọng lực - khi cả bốn kết hợp
với nguyên lý bất định Heisenberg (bị lượng tử hoá, nói theo ngôn từ chuyên
môn) - có thể nhận ra như sau: các trường (vật chất và điện từ) của ba lực
khi bị lượng tử hóa sẽ biến thành đơn vị rời rạc vận hành trong một
không-thời gian liên tục trơn tru. Trái lại trọng trường theo thuyết tương
đối rộng lại chính là metric của không-thời gian trơn tru liên tục đó, khi
bị lượng tử hóa cái trơn tru ấy chẳng còn giữ lại được đặc tính dẻo dai
nguyên thủy nữa mà bị mất tính đàn hồi, có nếp gấp và lỗ thủng (nói theo
ngôn ngữ toán học topo) tựa như mảng cao su căng quá bị xé rách. Ta không
thể không cảm thấy có cái gì trục trặc ở mức cơ bản nhất, tại sao thiên
nhiên lại có thể tùy tiện phân chia những định luật, chính xác ở một quy mô
nào đó, để rồi trở thành vô lý ở thang mức khác, cái nghịch cảnh này chỉ
phản ảnh sự thiếu sót của ta trên con đường tìm kiếm định luật vận hành của
Trọng trường Lượng tử (Quantum Gravitation). Đó quả là vấn đề số một của vật
lý hiện đại mà tai họa chân không minh họa ở trên là thí dụ.
Thuyết Siêu dây (Superstring) là một trong vài
lý thuyết mang khả năng, về nguyên tắc, dung hòa và giải quyết mâu thuẫn nói
trên để mô tả nhất quán tất cả bốn tương tác cơ bản trong cả hai thế giới
cực lớn của vũ trụ bao la và cực nhỏ của hạ nguyên tử, thống nhất mọi điều
về một mối. Theo thuyết này, thành phần cấu trúc cơ bản của vạn vật không
phải là hạt điểm (0 chiều) mà là dây hay màng (1 hay nhiều chiều) cực nhỏ
với kích thước độ dài Planck cỡ 10–35 m luôn dao động. Hai nền
tảng mà thuyết siêu dây dựa vào là Tương đối hẹp và Lượng tử, như vậy lúc
khởi đầu có sự cách biệt giữa cái vỏ chứa (không-thời gian phẳng
Minkowski) và cái bị chứa (dây đàn hồi dao động). Ngạc nhiên thay,
kết quả điểm đến là cái bị chứa chuyển giao tính đàn hồi cho cái
vỏ chứa, cái không-thời gian này hết cứng nhắc mà trở thành cong uốn đàn
hồi của thuyết tương đối rộng, như vậy trọng lực là hệ quả tất yếu suy ra từ
siêu dây. Một đặc điểm khác, siêu dây là thuyết duy nhất đầu tiên trong vật
lý xác định được con số D = 10 chiều của không-thời gian (trước siêu dây, số
chiều 4 của không-thời gian ta quen dùng chỉ là một định đề tiên nghiệm ta
tự cho ta, do cảm nhận và quan sát) minh họa không-thời gian là bộ phận
chẳng thể tách rời khỏi vật chất mà thuyết tương đối rộng đã hé mở cho ta
thấy. Sáu chiều không gian còn lại, tuy bị cuốn tròn quá nhỏ để ta không
quan sát được trong đời sống hàng ngày, có thể làm thay đổi chút xíu luật
1/R2 của trọng lực Newton, một đề tài thực nghiệm nóng hổi. Máy
gia tốc LHC cũng tìm kiếm gián tiếp chiều không gian phụ này, qua cái gọi là
hiện tượng ‘bất bảo toàn năng lượng ảo’, vì ta chẳng đo lường nổi một
phần năng lượng chảy vào cái không gian phụ đó. Đặc điểm thứ ba của siêu dây
là khả năng thống nhất điện-từ với trọng lực mà Einstein trăn trở tìm kiếm không thành, nôm
na điện-từ trường như siêu dây hở (hai đầu dây tự do)
và trọng trường như siêu dây kín (vòng
kín). Nhưng cần nhấn mạnh là mặc dầu có những tiến bộ kinh ngạc, nhiều khía
cạnh lý thuyết của siêu dây còn xa mới hoàn toàn sáng tỏ và nhất là
chưa/không có một tiên đoán nào của nó được chứng nghiệm dẫu gián tiếp.
Edward Witten - chuyên gia đầu ngành của thuyết này, nhà vật lý đầu tiên
được huy chương Fields uy tín về toán, không ai, kể cả những giải Nobel, có
công trình được trích dẫn nhiều bằng ông - đã một lần tuyên bố: thuyết siêu
dây là một bộ phận của vật lý thế kỷ 21 đã tình cờ rơi xuống thế kỷ 20, ngụ
ý có lẽ cần biết bao năm nữa mới được hoàn tất! Cơ sở toán học của nó quá
phức tạp, các chuyên gia siêu dây phải tự mình mò mẫm sáng tạo, không như
Einstein đã sẵn có hình học cong Riemann làm nền để khai sinh ra thuyết
tương đối rộng.
Vào cuối thế kỷ thứ 19, có một mâu
thuẫn giữa một bên là lý thuyết điện từ + nhiệt động học -
hai trụ cột cơ bản của vật lý thời đó- và bên kia là thực nghiệm đo
lường về hiện tượng bức xạ nhiệt của vật đen. Thực
thế, lý thuyết trên đưa đến một hệ quả phi lý là tổng năng lượng phóng xạ
bởi vật đen phải vô hạn, cụ thể ngồi trước một
bếp sưởi hồng, bất kỳ nhiệt độ cao thấp ra sao ta sẽ bị thiêu cháy tan biến
hết! Vậy mà Lord Kelvin, người của nhiệt độ tuyệt
đối, giáo hoàng của vật lý thời đó có câu tuyên bố năm 1892 nổi tiếng vì lạc
quan: “Vật lý đã hoàn chỉnh cả rồi về mặt căn bản, cái mà ta còn có thể đóng
góp chỉ là xác định thêm vài thập phân sau dấu phẩy cho các đo lường, tính
toán mà thôi. Tuy nhiên hãy còn hai vấn đề nho nhỏ...”. Hai tiểu
tiết ông nêu lên là: thứ nhất Michelson và Morley chẳng tìm thấy chất
liệu ether (xem 3a và phụ chú 12) tràn ngập vũ trụ trong đó dao động sóng
điện từ, thứ hai các đo lường ngày càng chính xác về cường độ bức xạ nhiệt
của vật đen (phụ chú 39) không phù hợp với nền tảng căn bản của vật lý kèm
thêm cái hệ quả phi lý nói trên. Ngờ đâu đó chính là hai vấn đề cốt lõi làm
ngọn hải đăng chỉ đường cho khoa học vượt trùng dương đi tìm biên giới của
tri thức. Giải quyết được hai tiểu tiết trên theo thứ tự là Albert Einstein
với thuyết tương đối hẹp, và Max Planck với thuyết lượng tử,
hai trụ cột của vật lý hiện đại. Ai có thể tưởng tượng nổi trăm năm sau ý
tưởng của Planck, một phần ba tổng sản lượng kinh tế của cường quốc số một
thế giới hiện nay có gốc nguồn từ những ứng dụng trực tiếp của công nghệ
lượng tử. Cái kiêu hãnh vội vàng của Lord Kelvin cho ta bài học nhún nhường
về hiểu biết hạn hẹp cục bộ của con người so với cái không biết mênh mông.
Qua con mắt ngây thơ của các em trẻ hỏi ta đủ thứ, khát vọng hướng thượng,
tìm hiểu, học hỏi, sáng tạo có lẽ chính là đặc tính bẩm sinh của loài người.
Như chim di đứng trên đôi cánh của chim bằng để cùng nhìn cao xa hơn mà
Besso thuở nào nói về bạn Einstein, dựa trên thành quả của người đi trước,
mỗi chúng ta từ trái đất nhỏ nhắn cùng nhau góp phần cho sự hài hòa giữa
người với người và với môi trường thiên nhiên để vươn tới các vì sao trong
hoàn vũ bao la.
Phạm Xuân Yêm
Ai trong chúng ta khi đi máy bay cửa sổ đóng kín và không gặp bão lay
động mà có thể cảm thấy mình di chuyển với vận tốc khoảng ngàn cây số
trong một giờ ? Khoảng bốn trăm năm trước đây, Galilei cũng đưa ra một
thí dụ tương tự, mở đầu cho nguyên lý tương đối mang tên ông:
trong hầm kín mít không giao tiếp gì với thế giới bên ngoài của một
chiếc tàu thủy di chuyển đều đặn ta hãy quan sát những con bướm
bay khắp phía và những giọt nước tí tách rơi. Nay để tàu đứng yên, ta
thấy bướm vẫn bay và nước vẫn rơi hệt như trước, chẳng có gì thay đổi.
Rồi tàu lại di chuyển đều đặn, nhưng với vận tốc và chiều hướng
khác, bướm vẫn bay và nước vẫn rơi như khi tàu dừng ở bến. Nói một cách
khác: những định luật miêu tả các hiện tượng thiên nhiên (bướm bay, nước
rơi) không chút thay đổi gì trên tàu di chuyển đều đặn
(bất kỳ vận tốc và chiều hướng nào) kể cả tàu dừng ở bến (v = 0). Người
ở trong tàu nếu chỉ quan sát đo lường những hiện tượng động hay tĩnh
trong tàu mà không tiếp xúc với bên ngoài để so sánh thì chẳng sao biết
là tàu đứng hay đi, và đi với vận tốc nào, chiều hướng nào. Nói khác đi
tĩnh hay di động đều đặn chỉ là chuyện tương đối, chẳng có lý gì
để khẳng định bến hay tàu cái nào đứng, cái nào đi.
(x,y,z,t) chỉ định toạ độ không gian-thời gian bốn chiều của một hiện
tượng vật lý xẩy ra trong hệ quy chiếu đứng yên, còn (x’,y’,z’,t’) trong
hệ quy chiếu di chuyển với vận tốc đều đặn v so sánh với
(x,y,z,t).
Tựa như đường thẳng (quỹ đạo của hạt di
chuyển không gia tốc) biến dạng ra các hình conic (quỹ đạo của hạt di
chuyển có gia tốc), hay hình cầu của bóng đá biến dạng ra bóng bầu dục
(ellipsoïd) vì tác động của trọng lực. Hình học cong này có thể nhận ra
khi ta đứng yên quan sát một người ở trong một sàn quay chung quanh trục
thẳng góc với sàn. Anh ta đo chu vi của sàn sẽ thấy lớn hơn π ≈ 3.14 lần
đường kính của sàn. Thực thế, vận tốc v của sàn quay tiếp
tuyến với chu vi của nó, vậy thước đo chiều dài chu vi sàn bị co lại
(phụ chú 15), trong khi đường kính sàn vì thẳng góc với v nên
thước không co. Vòng tròn trong
hình học phẳng có chu vi bằng π đường kính của nó, nhưng trong hình học
cong vì thước đo chu vi co cụm nên chu vi lớn hơn π đường kính.
Đường
trắc địa trên bề mặt quả cầu là những hình tròn lớn (cùng đường kính với
quả cầu). Trong hình học Minkowski vì
ημν
mang dấu ±1 nên cạnh AC (trên trục thời gian) của tam giác ABC lại dài
hơn tổng cộng hai cạnh AB + BC, và đường thẳng trắc địa nối A và C lại
là đường dài nhất. Điều kiện để con đường ŁAB = ∫BA
ds (diễn tả bởi sự di chuyển của điểm xλ
= xλ
(s), thông số s đo độ dài trên con đường) có chiều dài tối
ưu là xλ (s) phải
tuân theo phương trình vi phân bậc hai:
d²xλ
/ds² + Γλμν
[dxμ /ds] [dxν/ds]
= 0 (1)
Đại lượng
Γλμν
(hệ số Christoffel) trong phương trình (1) là những đạo hàm của metric gμν(xλ),
tính theo công thức sau (với định nghĩa ∂μ
gνσ
≡ dgνσ
/dxμ
)
Γλμν
= (½) gλσ
[∂μ
gνσ
+ ∂ν
gμσ
─ ∂σ
gμν] (2)
Trường
hợp trọng trường yếu (mật độ năng khối lượng nhỏ như hệ mặt trời),
metric gμν
không khác metric phẳng ημν bao
nhiêu : gμν(x)
= ημν + hμν(x),
với x = |x|, và |hμν(x)| « 1, hμν(x)
thay đổi chậm chạp cũng như Tij « T0i
«T00 (xung lượng
k
= mv ≈ 0). Phương trình trội nhất R00
– (½)R g00 = (8πG/c4)T00
cho ta luật của Newton: h00(x) = 2GM/(c2x)
≡ 2 U(x)/c2 ≈ 10–9, M là khối lượng trái
đất, x là khoảng cách từ tâm quả đất đến vật mà ta khảo sát, và U(x) =
GM/x là thế hút của trái đất làm cho vật rơi với gia tốc
g
= –dU(x)/dx ≈ 9. 81m/s2.
Thực ra khi vắng vật chất (Tμν
= 0),
không-thời gian chỉ mất đi cấu
trúc cong thôi, ta vẫn
còn chẳng những không-thời gian phẳng của Minkowski mà cả muôn vàn sóng
trọng trường dao động trong một không-thời gian rỗng tuếch phi
vật chất chẳng do đâu tạo ra cả.
Không-thời gian chỉ thực sự biến mất (khi Tμν
= 0) nếu ông thêm vào vế trái
của phưong trình (II) một số hạng mới
Λgμν
và ông gọi Λ
> 0 là hằng số vũ trụ. Tuy nhiên cái nội dung sâu sắc
của bức thư là Einstein nhấn mạnh đến sự liên đới chẳng sao tách biệt
giữa vật chất, lực, năng lượng, không gian, thời gian; một cách mạng
trong nhận thức.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org Phạm Xuân Yêm
|