Năm 5 tuổi, cậu bé Einstein đã bị thôi miên
bởi chiếc la bàn – quà tặng của ông bố nhằm
giúp cậu con trai giải trí lúc đang phải nằm
bẹp trên giường vì ốm. Đối với cậu bé, sự
kiện chiếc kim cứ “bướng bỉnh” nhất định
quay về một hướng nhất định là diều kỳ lạ
chưa từng thấy!
 |
 |
Albert Einstein thời thơ ấu |
Hình Học Euclid – hình học thiêng
liêng |
Năm 12 tuổi, cậu lại bị thôi miên lần thứ
hai bởi cuốn Hình Học Euclid do chú Jacob
tặng, đến nỗi cậu gọi đó là “cuốn sách nhỏ
hình học thiêng liêng” (the holy geometry
booklet). Cậu thán phục phương pháp chứng
minh sáng sủa, khúc chiết, thuyết phục, và
chắc chắn của Euclid như một phép lạ của tư
duy. Không thể có cuốn sách nào hay hơn nữa!
Vì quá say mê với cái mới lạ, Einstein trở
thành một học sinh-sinh viên tự do “vô kỷ
luật” hạng nhất. Anh chỉ theo đuổi những lý
thuyết mới lạ mà anh thích, ngược lại, anh
bỏ những giờ học trên lớp đối với những môn
học mà anh thấy cũ kỹ nhàm chán. Nhà vật lý
Abraham Pais, một người bạn của Einstein,
sau này kể lại rằng trong đời ông, ông chưa
từng thấy ai có tính cách tự do như
Einstein.
Thật vậy, tại Đại học
bách khoa ETH của Thụy Sĩ, Einstein đã thi
trượt môn vật lý trong phòng thí nghiệm của
giáo sư Jean Pernet. Đó là lần duy nhất anh
thi trượt. Einstein không thích Pernet ngay
từ đầu, và đó là lý do chủ yếu dẫn tới thi
trượt. Tính cách vốn tự do, Einstein bỏ rất
nhiều giờ giảng của Pernet, làm cho Pernet
rất khó chịu. Pernet đã báo cáo với ông hiệu
trưởng về thói bất tuân thủ của Einstein,
rằng Einstein là một sinh viên vô lễ, kiêu
căng tự phụ. Khi Einstein gặp ông để phân
trần, Pernet nói thẳng thừng: “Cậu nên tìm
một lĩnh vực khác để theo đuổi, bởi vì cậu
chẳng có hy vọng gì về vật lý, vật lý quá
khó đối với cậu” (!). Pernet đánh trượt
Einstein bằng cách cho Einstein điểm 1 đối
với bài thi kết thúc môn học của ông, điểm
thấp nhất có thể cho.
Môn học thứ hai tại ETH
mà Einstein cũng thường xuyên vắng mặt là
giờ toán của giáo sư Hermann Minkowski. Mặc
dù Minkowski là một nhà toán học nổi tiếng
đương thời, nhưng điều dó dường như cũng
không đủ để thuyết phục Einstein, nếu bản
thân anh chưa thấy những giờ toán đó cần
thiết trực tiếp cho những cái mới lạ mà anh
đang theo đuổi. Cũng tương tự như Pernet,
Minkowski rất ghét Einstein, và ông không
thương tiếc mắng Einstein là “con chó lười
biếng” (a lazy dog). Trớ trêu thay, năm
1907, khi Minkowski cùng với David Hilbert,
một trong những nhà toán học lớn nhất bấy
giờ, chuẩn bị cho một chuyên đề về điện động
học của các vật thể chuyển động, ông vớ được
công trình về thuyết tương đối hẹp của
Einstein, trong đó có những tư tưởng trùng
lặp với công trình toán học của chính ông –
tư tưởng về không-thời-gian 4 chiều, gồm 3
chiều không gian và một chiều thời gian.
Minkowski không thể tin vào mắt mình, ông
nói với mọi người rằng Einstein không thể
làm ra một công trình như thế được. Trong
thâm tâm, ông vẫn nghĩ Einstein vốn là một
“con chó lười biếng”. Còn chúng ta khi biết
sự việc này, không thể không lấy làm ngạc
nhiên khi thấy Einstein đã “đi đường tắt”
quá nhanh để đạt tới những tư tưởng lớn như
vậy. Cái gì đã làm cho ông có khả năng “đi
đường tắt” như thế, nếu không phải do những
cái mới lạ cuốn hút mạnh mẽ, giúp ông gạt
phắt mọi trở ngại trên đường đi để chỉ nhắm
tới một cái đích duy nhất mà tiến tới?
Vậy nếu Einstein bỏ những giờ học quan trọng
như thế thì anh học cái gì? Anh tự học mọi
thứ khi anh thấy cần thiết, và đặc biệt, anh
học những thứ mới lạ mà anh bị quyến rũ. Nếu
cái mới lạ ấy không được dạy trong nhà
trường, anh tự tìm đọc ở thư viện. Giống như
nhiều vĩ nhân khác, Einstein là một trong
những tấm gương tự học vĩ đại nhất. Một
trong những lý thuyết hiện đại nhất thời bấy
giờ nhưng chưa được dạy trong nhà trường là
Lý thuyết sóng điện từ của James Clerk
Maxwell. Einstein đã tìm đọc lý thuyết này
và anh say mê đến nỗi Maxwell đã trở thành
một trong số những người có ảnh hưởng sâu
sắc nhất đối với anh. Một trong những công
trình đầu tiên và để đời của Einstein cũng
chính là một công trình về điện từ: Thuyết
lượng tử ánh sáng công bố năm 1905 – một
trong hai công trình khai sinh ra vật lý
lượng tử.
Sau này, năm 67 tuổi, Einstein đã viết hồi
ký kể lại kỷ niệm về chiếc la bàn và cuốn
Hình Học Euclid, và ông gọi đó là hai “kỳ
quan” (wonder) trong đời ông. Ai cũng thấy
Ankorvat ở Campuchia là một kỳ quan, nhưng
ít ai xúc động mạnh mẽ trước những “kỳ quan
bình thường” như Einstein đã từng xúc động.
Ở đây nổi lên một vấn đề: thiên tài là những
người cảm nhận được cái mới lạ trong những
cái bình thường!
Quả thật Einstein có một trực giác thiên tài
để phát hiện ra cái mới lạ trong những sự
kiện tưởng chừng như đã quá cũ kỹ.
|