I/
Đi tìm chân lý
“Điều quan trọng là
người ta không ngừng
hỏi” - câu nói này của
Albert Einstein được
viết trên tấm thảm đỏ
lớn tại cửa đi vào phòng
hội thảo tại Viện bảo
tàng Lịch sử Đức ở
Berlin trong năm 2005 -
năm được chọn làm “Năm
Einstein” và “Năm vật
lý” của thế giới. Nó thể
hiện triết lý của
Einstein đi tìm chân lý
không mệt mỏi và cũng là
kim chỉ nam suốt đời
ông.
Hơn 50 năm sau, thế giới
vẫn muốn nghe lại tiếng
nói thật nhất, can đảm
nhất của ông như một sự
nhắc nhở cho nhân loại.
Người “mơ mộng”
TT - Albert Einstein
sinh ngày 14-3-1879 tại
thành phố Ulm thuộc bang
Baden-Wurttemberg của
Đức, và mất ngày
18-4-1955 tại Princeton,
Mỹ. Ông là con trai đầu
của một gia đình gốc Do
Thái đã định cư lâu đời
ở vùng này. Gia đình
Einstein không phải là
ngoan đạo, đã được “hội
nhập”, không còn sống
với đạo truyền thống Do
Thái, có tinh thần phóng
khoáng.
Cậu bé chậm phát triển
Người ta kể cậu bé
Einstein có một số đặc
tính nổi bật không giống
với các cậu bé thường,
không phải là biểu hiện
thiên tài mà ngược lại!
Cậu sinh ra đã có cái
đầu quá to khiến bố mẹ
tưởng là quái thai, rồi
lại “chậm phát triển”.
Ba tuổi mà chưa nói
được, gây lo lắng khiến
bố mẹ phải đi tìm bác sĩ
tư vấn. Chín tuổi cũng
chưa nói năng thông
thạo. Nhưng người ta
đoán rằng cậu bé
Einstein đã suy nghĩ
bằng hình ảnh nhiều hơn
bằng chữ hay lời nói.
Những gì Einstein sau
này viết ra đều chứa đầy
hình ảnh, như những bức
tranh, từ khoa học đến
văn phong. Cái đầu ông
là một “xưởng vẽ” bằng ý
tưởng. Cậu nổi tiếng là
người “mơ mộng” và không
ai khám phá cậu có những
thiên phú gì. “Tôi là
một học sinh không đặc
biệt giỏi hay tồi. Điểm
yếu chính của tôi là tôi
có một trí nhớ không
tốt, đặc biệt cho chữ và
văn bản”, ông nhớ lại.
Tự học là chìa khóa con
đường khoa học của
Einstein, xuất phát từ
tinh thần độc lập của
ông. Einstein có một cá
tính nổi bật là không
thích mọi sự gò bó, ép
buộc; ông không thích kỷ
luật nghiêm ngặt và cách
học thuộc lòng trong nhà
trường. Phổ lại là một
nước có truyền thống
quân sự và kỷ luật chặt
chẽ nổi tiếng từ trường
học đến đường phố. Ông
cũng ý thức sớm sự vô
nghĩa của những gì người
đời săn đuổi với sự tàn
bạo. “Không có hoạt động
nghiên cứu cái khách
quan, cái mãi mãi không
bao giờ đạt tới trong
lĩnh vực nghệ thuật và
nghiên cứu khoa học thì
cuộc đời đối với tôi
trống rỗng. Những mục
đích tầm thường của sự
phấn đấu của con người
như chạy theo vật chất,
thành công bề ngoài và
sự xa xỉ đối với tôi từ
những năm tuổi trẻ là
đáng khinh” - Einstein
kể.
Hai sự kiện gây ấn tượng
mạnh và có ảnh hưởng lâu
dài đối với cậu bé
Einstein. Đó là năm cậu
lên 4 hay 5 tuổi, khi
được bố đưa cho một cái
la bàn với cây kim của
nó vẫn không đổi hướng
mặc cho vị trí la bàn
thay đổi thế nào.
Einstein như chạm vào sự
huyền bí của tạo hóa và
có ấn tượng mãnh liệt.
Năm lên 12, thêm một sự
kiện quan trọng nữa xảy
ra. Đó là khi Einstein
nhận được quyển sách nhỏ
về hình học Euclide từ
Max Talmud. Cậu bé lại
bị ấn tượng rất mạnh về
tính chính xác, mạch lạc
và rõ ràng của những
định lý hình học được
chứng minh theo cách suy
diễn logic từ một ít
tiền đề và định nghĩa.
Nó giống như một kim tự
tháp với đầu trên là một
ít tiên đề (axiom) và
phần còn lại là những hệ
quả suy diễn từ chúng.
Einstein nhìn nó như một
loại kỳ quan của trí tuệ
con người.
Tìm con đường cho riêng
mình
Einstein sinh ra trong
thập kỷ sau sự thống
nhất đế chế Đức (1871),
quốc gia trên đường trở
thành cường quốc hàng
đầu về công nghiệp ở
châu Âu, và ông mất đúng
một thập kỷ sau khi đế
chế này bị giải thể
(1945). Nước Đức cuối
thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20
phát triển thành một
người khổng lồ trong
lòng châu Âu. Từ
1820-1920 đã có 9.000
sinh viên Mỹ ghi danh
học. Trong khi nước Đức
là một miền đất hứa thì
Einstein lại bỏ nó ra đi
lúc 15 tuổi và chỉ vài
năm sau ông xin bố mẹ
cho ông ra khỏi quốc
tịch Đức để trở thành
công dân Thụy Sĩ! Ông
muốn chấm dứt quan hệ
với nước Đức, không
thích cách giáo dục gia
trưởng của các thầy
giáo, và có lẽ quan
trọng hơn, không muốn đi
quân dịch trong quân đội
Phổ. Ông ra đi để tìm
con đường cho riêng
mình. Rồi năm 1914, chỉ
vài tuần trước khi Thế
chiến thứ nhất bùng nổ,
ông trở lại nước Đức
trong sự vinh quang của
tên tuổi khoa học, theo
lời mời gọi của Viện hàn
lâm Phổ. Viện hàn lâm đã
quyết tâm mời ông về ở
tuổi 35, cho ông hưởng
sự ưu đãi cao nhất có
thể có được của nhà nước
Phổ.
Einstein bản tính là một
người “nổi loạn”, không
chịu khép mình vào những
trật tự cố định. Ông
sinh ra là để làm người
tự do và chấp nhận mọi
sự trả giá để được sống
và tư duy tự do.
Einstein không phải là
sản phẩm của các lò đào
tạo học trò xuất sắc,
trường chuyên, của chế
độ đào tạo bằng nhồi
nhét, hay của bộ máy hàn
lâm kiêu hãnh, lại càng
không phải là thần đồng.
Ông đứng ngoài tất cả
những thứ đó, là sản
phẩm của tự học và óc tò
mò vô hạn trước thiên
nhiên. Ông đã để tư duy
của mình bay bổng với
đôi cánh mộng tưởng
trong bầu trời tự do vô
hạn của tạo hóa. Ông cho
rằng không nên lấy hoạt
động khoa học để làm
phương tiện kiếm sống,
để giữ cho mình được tự
do. Đó cũng chính là con
đường ông chọn sắp tới
để bước vào đời.
Thăm thầy, nhưng thầy
đã quên
Einstein có một người
thầy khả kính ở Trường
trung học Munich là tiến
sĩ Ferdinand Ruess. Nếu
phải ở lại thêm một giờ
để nghe tiếp thầy giảng
thì Einstein cũng vẫn
hài lòng. Lúc Einstein
làm giáo sư ở Zurich,
một lần có dịp trở lại
Munich, nhớ thầy cũ đến
thăm và nghĩ rằng chắc
thầy sẽ mừng lắm khi gặp
lại trò, nhất là khi trò
nay là giáo sư đại học.
Nhưng thầy Ruess hoàn
toàn không còn nhớ
Einstein. Có lẽ vì cậu
bé Einstein khi xưa
chẳng để lại ấn tượng gì
ở thầy. Hơn nữa, khi
thấy Einstein ăn mặc lôi
thôi, như thói quen của
Einstein, người thầy đâm
ra nghi ngờ thanh niên
kia giả vờ làm cựu học
sinh để mượn tiền.
Einstein đành tiu nghỉu
ra về.
Ở Đức cậu bị chê bai.
Hiệu trưởng Trường trung
học Gymnasium Luitpold
Munich một ngày nọ đã
kêu cậu đến và nói:
“Einstein, cậu sẽ chẳng
làm nên chuyện gì đâu”
và bồi thêm để đuổi cậu
khỏi trường: “Sự hiện
diện của cậu đã làm mất
đi sự tôn kính trong lớp
học”. Có lẽ do thái độ
không ưa thích kỷ luật
của cậu. Einstein không
phải học tồi như huyền
thoại lưu truyền.
Einstein chấp nhận lời
xua đuổi ấy, như chấp
nhận sự thách thức của
vua Phổ: “Ai không vừa
ý, kẻ đó nên rũ sạch đất
Đức dưới chân mình và
hãy ra đi”. Bỏ trường
ngang ở tuổi 15, một
hành động táo bạo, như
của một “kẻ bụi đời”,
mong để thoát khỏi không
khí gia trưởng. Ông đi
về Milan sống với gia
đình một thời gian rồi
sau đó qua Thụy Sĩ. Đó
là lần “di cư chính trị”
đầu tiên ra khỏi nước
Đức.
Ông tận hưởng những ngày
tự do và bắt đầu tự
nghiên cứu khoa học ở
Milan. Ông rời trường
học nhưng không rời khoa
học. Mục tiêu của ông là
vào học Trường đại học
kỹ thuật ETH Zurich.
Trường này là trường
ngoài nước Đức ra tốt
nhất ở châu Âu (và hiện
nay vẫn là trường tên
tuổi thế giới) và không
đòi hỏi bằng tú tài mà
chỉ yêu cầu phải thi một
kỳ khảo sát. Ông bắt đầu
một cuộc sống tự lập và
tự hoạch định tương lai
cho mình. Thi rớt vào ĐH
ETH Zurich, ông phải lui
về Aarau, một thị trấn
nhỏ gần Zurich, để học
một năm dự bị và sau đó
ra trường Aarau với điểm
thủ khoa.
Khi tốt nghiệp cử nhân
năm 1900, Einstein rất
kỳ vọng vào một chân
giảng nghiệm viên ở Đại
học ETH Zurich để tiếp
tục việc nghiên cứu khoa
học. Trong khi những
sinh viên tốt nghiệp
khác đều được bổ nhiệm
việc làm trong đại học,
Einstein phải đi ra với
“tay trắng” vì không
giáo sư nào có thiện cảm
với con người “lười
biếng” này để cho một
chức giảng nghiệm viên
cả. Ông xin việc ở Đức
và Hà Lan nhưng cũng
không thành. Thất
nghiệp, Einstein phải đi
kèm trẻ để sống qua
ngày. Giữa năm 1901, một
cái phao cứu hộ đã đến
với ông. Do sự giới
thiệu của gia đình một
người bạn thân, Einstein
được nhận vào làm
“chuyên viên hạng ba”
của Sở Bản quyền sáng
chế liên bang Thụy Sĩ.
Ông chỉ được làm thử
việc, kéo dài cho đến
năm 1904 mới được làm
chính thức, và năm 1906
mới được lên hạng cấp
hai. Einstein đã bị đẩy
ra ngoài bộ máy hàn lâm
và đã có ý nghĩ bỏ giấc
mơ hàn lâm đã ấp ủ của
ông. Đó là hệ quả và cái
giá phải trả của tính
độc lập của con đường
ông đang đi. Ông chẳng
phải lười biếng như các
thầy đã gán, mà chỉ làm
một điều: theo đuổi
những ý tưởng độc lập
của mình, ông chỉ đi vào
đại học để nghe những gì
ông thật sự thấy bổ ích.
Ông làm theo điều đã
được đề cao như một
trong những nguyên tắc
của nền đại học Đức trăm
năm qua: tự do học.
Đó là thời kỳ mà con
người đang đứng trước
một thế giới mới chưa
biết và chưa hình dung
được những chân trời mới
của nó sẽ mở ra. Song
chuyên viên hạng ba
Einstein đã đặt nền móng
cho cả hai cuộc cách
mạng: “Thuyết tương đối”
và “Thuyết lượng tử”.
II/ Lật đổ trật tự cũ
TT - Thời gian làm
“chuyên viên hạng ba”
tại Sở Bản quyền sáng
chế liên bang Thụy Sĩ ở
Bern chính là thời gian
Albert Einstein ấp ủ trí
tuệ để chinh phục đỉnh
cao ngọn núi Olympe của
trí tuệ.
Ông nghiên cứu khoa học
những lúc ngoài giờ,
hoặc lén lút trong văn
phòng, khi thu xếp công
việc của sở xong sớm ông
mở bài ra làm, thấy ai
đi tới thì nhanh tay
giấu bài vào hộc tủ. Ông
tự nghiên cứu, tìm tòi,
không ai hướng dẫn ông
ngoài óc tò mò. Ở nhà,
ông một tay dỗ con ngủ,
một tay làm toán. Ông
lập gia đình với Mileva
năm 1903 và có con trai
đầu Hans Albert năm
1904.
Hừng đông của một thời
đại mới
Năm 1905 đến với
Einstein, lúc đó 26
tuổi, như “năm thần kỳ”
trong lịch sử khoa học.
Tạp chí Niên Giám Vật Lý
nổi tiếng của Đức năm đó
nhận được năm bài báo
của Einstein liên tiếp
chỉ cách nhau vài tháng.
Một sự phát triển bùng
nổ của sức sáng tạo ở
Einstein sau bốn năm “ẩn
dật” tại sở sáng chế. Đó
là năm bài báo được đánh
giá có sức mạnh thay đổi
thế giới!
Chúng nhắm vào ba chủ
đề:
1. Bản chất của chuyển
động Brown trong chất
lỏng, bằng cách sử dụng
xác suất như một phương
pháp nghiên cứu mới
trong vật lý, góp phần
đặt cơ sở cho ngành cơ
học thống kê, và giải
thích được sự hiện hữu
của nguyên tử, lúc bấy
giờ vẫn còn bị nghi ngờ
rộng rãi;
2. Giả thuyết “lượng tử
ánh sáng”, rằng ánh sáng
được cấu tạo bằng hạt
được gọi là photon với
những “gói năng lượng
lượng tử” rời rạc, chỉ
được phát ra hay hấp thu
trọn gói; một trong
những áp dụng của giả
thuyết lượng tử ánh sáng
là giải thích được hiện
tượng quang điện khó
hiểu lúc bấy giờ (năm
1921 ông được giải Nobel
về công trình này);
3. “Về điện động lực học
các vật thể chuyển
động”, tức thuyết tương
đối hẹp (special
relativity theory).
Năm bài báo nhanh chóng
trở thành động lực và
nguồn cảm hứng cho giới
khoa học. Chúng gây ra
hai cuộc cách mạng lớn
của thế kỷ 20 về thế
giới quan. Cuộc cách
mạng thứ nhất đã thay
đổi hẳn quan niệm về
thời gian và không gian,
đó là thuyết tương đối
hẹp. Mười năm nữa, năm
1915, ông hoàn tất
thuyết tương đối rộng
(general relativity),
theo đó không gian và
thời gian sẽ kết hợp
thành một không gian bốn
chiều. Cuộc cách mạng
thứ nhất được gọi là
“thuyết tương đối”, còn
cuộc cách mạng thứ hai
là “thuyết lượng tử”.
Với thuyết tương đối
hẹp, Einstein đã thay
đổi có tính chất lật đổ
các khái niệm về thời
gian, không gian và năng
lượng, tức là thay đổi
cả “tòa nhà” cơ học cổ
điển Newton, vì mọi độ
đo khác đều có thể qui
về ba đại lượng này. Một
vài tháng sau khi bài
báo thuyết tương đối
được công bố, ông đi đến
một khám phá mới đặc
biệt quan trọng: khối
lượng và năng lượng chỉ
là một.
Ông viết cho một người
bạn cảm tưởng của mình
sau khi đi đến kết luận
mới này: “Không biết
Thượng đế có cười nhạo
và đùa bỡn với tôi
chăng, tôi không thể
biết”.
Thượng đế không đùa bỡn
với Einstein. Ông đã
nhìn thấy bí mật của
Thượng đế. Đó là công
thức nổi tiếng E=mc2
(năng lượng bằng khối
lượng nhân với bình
phương vận tốc ánh
sáng). Với thuyết tương
đối rộng, còn gọi là
thuyết trường hấp dẫn,
Einstein cũng đã “cướp”
luôn ảo vọng cuối cùng
của con người: không -
thời gian chúng ta sống,
diễn tả thế giới thực
tại, không phải Euclide
mà là phi Euclide! Tổng
số ba góc của một tam
giác không còn là hai
góc vuông. Không gian
một lần nữa không tuyệt
đối hay bất biến như
Newton giả thuyết mà tùy
thuộc vào sự phân bổ vật
chất trong đó.
Với thuyết tương đối,
Einstein đã giải phóng
con người ra khỏi sự
huyền bí và huyền thoại
của không gian, thời
gian, của hấp lực, và
của quan hệ giữa năng
lượng và khối lượng. Từ
mốc thời gian 1905, khoa
học đang đứng trước một
bình minh mới rạng rỡ
hơn bao giờ hết. Vật lý
đang làm cuộc khai sáng
cho nhân loại. Galileo
và Newton bây giờ đã có
người nối nghiệp.
Trở thành con người của
thế giới
Tháng 5-1909, khi
Einstein nộp đơn xin
thôi việc ở sở sáng chế
và khi được người ta hỏi
tại sao ông lại muốn
nghỉ việc trong khi ông
được đánh giá cao ở sở,
ông trả lời là để nhậm
chức giáo sư tại Đại học
Zurich, thì liền bị chế
nhạo: “Làm sao có chuyện
đó, ông Einstein, tôi
không tin ông đâu. Đó
chỉ là chuyện tiếu lâm
thôi!”. Thiên hạ quả
“đùa dai” với chàng
thanh niên có đôi mắt xa
xăm như những vì sao
này, cho rằng anh ta sẽ
không bao giờ làm nên
chuyện lớn. Người ta vẫn
chưa biết rằng “con vịt
xấu xí” của ngày nào sắp
sửa chuyển mình thành
thiên nga bay khỏi cái
nôi đã chật chội, chưa
ai xung quanh biết rằng
ông từ chỗ vô danh sắp
trở thành con người của
thế giới.
Trong khoảng thời gian
1909-1914, Einstein làm
giáo sư tại Đại học
Zurich, một thời gian
ngắn tại đại học Đức ở
Prague, sau đó trở về
Đại học ETH Zurich, nơi
trước đây ông thi rớt ở
kỳ thi nhập học và sau
đó lại thất bại trong
việc tìm một chân giảng
nghiệm viên. Đầu năm
1914, ông chấp nhận lời
mời của Viện Hàn lâm Phổ
để về Berlin. Năm đó ông
mới 35 tuổi, thành viên
trẻ nhất của Viện Hàn
lâm Phổ. Các ưu đãi
ngoài sức tưởng tượng là
những chính sách đặc
biệt ngoại hạng chỉ dành
cho Einstein. Nhưng
không phải chỉ vì tài
năng khoa học của
Einstein. Phổ muốn rằng
cả thế giới vật lý và
khoa học nhìn sự hiện
diện của Einstein tại
Berlin như một tín hiệu
của sự ưu việt Phổ trong
khoa học.
Charlie Chaplin
nói với Einstein: “Dân
chúng hoan hô tôi vì mọi
người hiểu tôi, còn họ
hoan hô ông bởi vì không
ai hiểu ông”.
Năm 1914, lúc ông vừa
dọn về Berlin được vài
tháng thì Chiến tranh
thế giới thứ nhất bùng
nổ. Những gì ông đã ngờ
về nước Đức lâu nay, lý
do đã khiến ông bỏ ra đi
năm 15 tuổi, bây giờ
biến thành sự thật khủng
khiếp.
Chống lại cuộc chiến
tranh của Phổ là một
hành động quả cảm phi
thường của một nhà khoa
học khi chính ông là
người được Viện Hàn lâm
Phổ hậu đãi hiếm thấy
trong lịch sử. Cuối năm
1914, ông gia nhập “Hội
Tổ quốc mới” mà mục tiêu
là sự thành lập một
“Hiệp chủng quốc châu
Âu”.
Ông bị cuốn vào chính
trị từ đó và phải chia
quĩ thời gian của ông
“giữa phương trình và
chính trị” như ông nói.
Einstein là một trong
rất ít nhà khoa học dám
lẻ loi đứng chống lại
một trận cuồng phong của
chiến tranh. Ông liên
kết với các nhân sĩ thời
đó để chống lại chủ
nghĩa quân sự, chủ nghĩa
quốc gia, đấu tranh cho
hòa bình và dân chủ. Ông
là con người khoa học
hiếm thấy có ý thức
chính trị, và có những
phán đoán chính trị sắc
bén và chính xác, có
dũng cảm công dân, hoàn
toàn không chạy theo đám
đông. Sau khi Hilter lên
nắm quyền đầu năm 1933,
ông là người công khai
tố cáo chế độ quốc xã từ
nước ngoài.
Trong thời gian ở
Berlin, ông tiếp tục
nghiên cứu lý thuyết
tương đối mở rộng ứng
dụng vào hấp lực của
Newton. Năm 1915, ông
hoàn thành công trình đồ
sộ này, năm 1916 được
công bố trên tạp chí
Niên Giám Vật Lý. Đó là
công trình vất vả nhất
và sâu sắc nhất của
Einstein, “một thành tựu
lớn nhất của tư duy con
người về tự nhiên, sự
kết hợp của chiều sâu
triết học, trực giác vật
lý và nghệ thuật toán
học một cách ngạc nhiên”
như Max Born sau này
bình luận.
Tháng 8-1917, ông báo
cáo trước Viện Hàn lâm
Phổ công trình quan
trọng tiếp theo về vũ
trụ học. Đó là công
trình thế kỷ cho ngành
thiên văn học hiện đại,
được xây dựng trên
thuyết tương đối rộng.
Các phương trình từ
thuyết tương đối rộng đã
châm ngòi một giai đoạn
phát triển vũ bão mới
cho ngành thiên văn và
thay đổi hiểu biết con
người về số phận của vũ
trụ một cách triệt để và
thú vị nhất.
Đây mới chỉ là khúc dạo
đầu của một giai đoạn
phát triển bão táp của
ngành thiên văn theo
thuyết tương đối trong
những năm sáu mươi, sau
khi thuyết tương đối
rộng như nàng tiên ngủ
yên đi ba thập niên, vì
kỹ thuật chưa có điều
kiện để kiểm chứng. Bốn
ngày trước khi công bố
bài nghiên cứu về vũ trụ
học, Einstein viết cho
một người bạn: “Tôi cũng
lại phạm tội về một cái
gì trong lý thuyết hấp
lực với thuyết tương đối
rộng, và có một ít nguy
cơ bị cho vào nhà thương
điên”.
Einstein trả lời người
bạn của gia đình khi ông
này hỏi về sự thông
minh: “Tôi không thông
minh hơn người thường
nào. Tôi đơn giản chỉ tò
mò hơn một người trung
bình, và tôi không bỏ
cuộc trước một vấn đề
cho đến khi tôi tìm được
giải đáp. Ông có thể xem
tôi là kiên nhẫn hơn
những người trung bình
trong việc theo đuổi các
bài toán. Không phải
thông minh hơn là quan
trọng mà là tò mò hơn và
có lẽ kiên nhẫn hơn
trong vấn đề tìm giải
đáp cho một bài toán.
Tôi không có một sức
mạnh tư duy đặc biệt
mạnh (“cơ bắp não”) nào,
dù chỉ trong mức độ
khiêm tốn. Nhiều người
có thứ đó nhiều hơn
nhiều mà không mang lại
một cái gì đáng để ngạc
nhiên”.
Einstein trở thành một
vì sao mới, đoạt giải
Nobel, đi diễn thuyết
khắp nơi với sứ mạng hòa
bình. Nhưng một lần nữa,
ông lại phải rời quê
hương.
III/ Đi tìm chân lý
Giã từ nước Đức
TT - Những vinh quang
thế giới đã dành cho
Einstein sau sự xuất
hiện của thuyết tương
đối. Einstein đi diễn
thuyết khoa học khắp
nơi, từ Áo, Mỹ, Anh…
sang Pháp, Nhật…
Người con trai thứ hai
Eduard 9 tuổi của
Einstein hỏi: “Tại sao
bố lại nổi tiếng như
thế, thưa bố?”. Ông cười
và trả lời: “Con xem,
khi một con bọ bò dọc
theo một cành cây cong,
nó không biết được rằng
cành cây đó cong. Bố có
cái may mắn thấy được
điều con bọ đã không
thấy”.
Bầu trời hòa bình tối
dần
Năm 1933, khi Einstein
ghé thăm Anh, báo chí
Anh đã đón mừng con
người có sức thu hút
quần chúng này như một
biểu tượng. Trong khi
năm 1633 tại lục địa,
Galileo bị đưa ra trước
tòa án dị giáo của nhà
thờ vì những kết quả
nghiên cứu khoa học của
ông không phù hợp với
lời dạy của nhà thờ, và
đến cuối thế kỷ 17 ở
châu Âu vẫn còn các
phiên toà xử “phù thủy”,
thì nước Anh có được một
không khí tự do phóng
khoáng cho những ý tưởng
mới. Newton năm 1687 có
thể phổ biến những khám
phá của mình trong tác
phẩm Principia mà không
phải lo lắng. Đúng 300
năm sau ngày Galileo bị
xử, nước Anh biểu lộ sự
ngưỡng mộ cao độ cho một
thiên tài thời đại, họ
biết vượt qua mọi biên
giới của lịch sử, địa
lý, của tình cảm thù hằn
dân tộc để xem thiên tài
ấy như người con yêu quí
của chính nước Anh vậy.
Thế nhưng, sự nổi tiếng
của Einstein và thuyết
tương đối kéo theo một
cái bóng lớn đáng sợ của
sự chống đối đủ mọi màu
sắc. Các tiếng nói thù
địch chống ông bắt đầu
cất lên. Người ta chống
ông vì không hiểu thuyết
tương đối, vì vẫn còn
bám vào các quan niệm
khoa học cũ, vì ganh tị,
tị hiềm, vì ông là người
gốc Do Thái, hoặc vì
tính chất chính trị, ông
là người theo chủ nghĩa
hòa bình. Giới cầm quyền
Đức cho rằng những người
theo chủ nghĩa hòa bình
chính là con dao đã đâm
vào lưng nước Đức khiến
Đức thua trận trong Thế
chiến thứ nhất.
Nhưng những sự chống
báng nghiêm trọng nhất
đến từ những ý đồ chính
trị, chủng tộc và ý thức
hệ tại Đức. Những nhà
khoa học đầu đàn đều
biết rõ giá trị của
Einstein. Nhưng đối với
không ít người, sự thành
công của Einstein là một
thách đố, một cái gai
trước mắt họ. Trong khi
bầu trời khoa học của
nhân loại được khai sáng
thì bầu trời hòa bình
của nhân loại bị tối
dần. Đầu năm 1920, “mây
mù” kéo lên thành phố
Berlin và nước Đức. Lực
lượng phát xít bắt đầu
bài xích công khai
Einstein một cách có tổ
chức. Ngày 24-6, ngoại
trưởng Đức Walther
Rathenau, một người Đức
gốc Do Thái và là bạn
thân của Einstein, bị
lực lượng cực hữu ám
sát, báo trước cho
Einstein nguy cơ có thể
sắp đến với ông. Ông bỏ
đi chu du thế giới một
thời gian dài.
Einstein đã sớm được đề
cử cho giải Nobel vật lý
từ năm 1910, lúc ông 31
tuổi, chỉ năm năm sau
“năm thần kỳ”. Thế nhưng
mãi đến năm 1921, Ủy ban
Nobel mới tuyên bố công
nhận giải Nobel cho
Einstein. Trớ trêu thay,
trước áp lực của dư luận
chống đối, Ủy ban giải
Nobel ở Oslo chỉ dám
phát giải cho Einstein
về công trình hiệu ứng
quang điện chứ không
phải về thuyết tương
đối. Giải Nobel cho
Einstein làm dịu dư luận
phần nào, vì cuối cùng
Einstein cũng được giải.
Người ta kể rằng khi
được hỏi, Einstein đã
phát biểu cảm tưởng của
mình như sau: “Tôi rất
vui mừng vì nhiều lý do,
trong đó có lý do vì
người ta không còn đặt
câu hỏi trách móc cho
tôi nữa: Tại sao ông
không được giải Nobel?”.
Trước tình hình chủ
nghĩa bài Do Thái ngày
càng dâng cao, mối nguy
cơ của chủ nghĩa phát
xít, của một cuộc chiến
tranh thế giới mới ngày
càng lớn, ông tích cực
đấu tranh cho hòa bình.
Năm 1926, ông cùng ký
tên với Gandhi, Tagore,
Barbusse và một số nhân
sĩ khác vào một tuyên
ngôn chống chiến tranh.
Những ngày còn lại của
Einstein trên nước Đức
chỉ còn đếm được trên
đầu ngón tay.
Chấm dứt “thời đại vàng
son” của khoa học Đức
IV/
Einstein đọc bài diễn
văn tại Anh
Ngày 30-1-1933, Hitler
lên nắm quyền, xóa bỏ
mọi quyền tự do công
dân. May mắn cho
Einstein là lúc đó ông
và vợ đang còn ở Mỹ.
Ngày 16-2, tòa nhà Quốc
hội Đức bị cháy. Hitler
lấy cớ liền ra tay đàn
áp các lực lượng cánh tả
và trí thức.
Einstein cùng với một
loạt nghệ sĩ và văn sĩ
bị báo chí Đức quốc xã
tấn công dữ dội. Đầu
tháng ba, trước khi
xuống tàu từ Mỹ về châu
Âu, ông công bố quyết
định không trở lại nước
Đức nữa.
Ông kêu gọi thế giới văn
minh hãy can thiệp bằng
dư luận chống lại sự đàn
áp của Hitler. Ngày ông
xuống tàu cũng là ngày
báo chí đưa tin nhà nghỉ
mát của ông ở Caputh
(Berlin) bị khám xét và
tài sản bị tịch thu. Con
đường mang tên Einstein
ở thành phố Ulm bị đổi
tên thành đường Fichte,
một nhà triết học quốc
gia chủ nghĩa của Đức.
Tháng mười, trong một
cuộc phỏng vấn ông đã
nói: “Tôi không thể hiểu
được sự thụ động mà cả
thế giới văn minh phản
ứng trước cái dã man
hiện đại. Thế giới không
thấy Hitler đang nhắm
đến chiến tranh hay
sao?”.
Vừa đến Antwerpen, ông
đã trả lại hộ chiếu và
quốc tịch Đức cho cơ
quan đại diện Đức. Trước
đó, ngày 28-3, ông đã
gửi quyết định từ chức
đến Viện Hàn lâm Phổ.
Đức quốc xã tức tối vì
Einstein đã ra tay
trước, họ đã âm mưu sẽ
loại Einstein ra khỏi
viện hàn lâm chính thức.
Ngày 10-5-1933 tại
Berlin, 20.000 quyển
sách bị đốt, trong đó có
sách của Albert
Einstein. Đốt sách diễn
ra đồng loạt tại 16 đại
học khác. Ông ở lại Bỉ
và Anh đến tháng mười,
để sau đó cùng với vợ
quay về Mỹ định cư tại
Princeton. Ông cảm thấy
trước thảm họa của “đế
chế thứ ba” của Đức quốc
xã và linh cảm: “Tôi
chắc sẽ không bao giờ
thấy lại đất nước sinh
ra tôi nữa”.
Sự ra đi của Einstein
đồng nghĩa với việc nền
khoa học của Đức mất đi
người lãnh đạo tinh
thần, lá cờ biểu tượng
cho khoa học. Hơn 1.600
giáo sư và cán bộ giảng
dạy bị mất chức. Một
cuộc di tản khổng lồ
diễn ra, một cuộc chảy
máu chất xám khủng khiếp
trong lịch sử khoa học
Đức.
Hitler cho truy lùng lý
lịch của tất cả các nhà
khoa học xem có “thuần
chủng” hay không. “Thời
đại vàng son” trong khoa
học của Đức bị chấm dứt
một cách tàn bạo.
Gưttingen là đại học
hứng chịu những hậu quả
nặng nề nhất. Nhiều giáo
sư hàng đầu phải ra đi.
Không còn ai để giảng
bài cho sinh viên trong
khoa toán nữa.
Trước khi rời châu Âu để
về Mỹ, Einstein ghé lại
thăm Anh bốn tuần. Đêm
3-10-1933, hơn một vạn
người, trong đó có rất
nhiều người tị nạn chính
trị từ Đức, đã chen nhau
tại tòa nhà hình cung
khổng lồ Royal Albert
Hall cạnh Hyde Park ở
London để nghe Einstein
nói chuyện.
Buổi nói chuyện nhằm mục
đích lạc quyên cho những
nhà khoa học tị nạn Đức
quốc xã. Một lực lượng
cảnh sát đông bất thường
được bố trí tại các con
đường dẫn vào địa điểm
vì có tin sẽ có âm mưu
sát hại Einstein.
Trong phòng lễ, thêm
1.000 sinh viên được bố
trí để ngăn chặn ngay
mọi sự khiêu khích nếu
có. Trên bàn chủ tọa có
những người con nổi
tiếng nhất của nước Anh
trong khoa học. Einstein
phát biểu lần đầu tiên
bằng tiếng Anh, với
giọng Đức của mình, nói
một cách tha thiết và
cảm động: “Chính trong
giai đoạn thiếu thốn
kinh tế như chúng ta
chứng kiến hiện nay khắp
nơi, người ta mới thấy
rõ các sức sống của đạo
đức - những cái sinh
động trong một dân tộc -
mạnh mẽ và hiệu quả như
thế nào”.
Bài diễn văn của
Einstein tại Royal
Albert Hall là bài phát
biểu chia tay với châu
Âu. Ông, vợ Elsa, thư ký
Helen Dukas và trợ lý
Walther Mayer lên tàu,
rời bỏ lục địa châu Âu.
Paul Langevin, người bạn
thân của Einstein tại
Pháp, bình luận: “Giáo
hoàng của vật lý” đã
chuyển ghế của mình sang
Tân thế giới. Princeton
là nơi dừng chân cuối
cùng trong cuộc đời
không tổ quốc của ông.
Einstein sống tất cả 19
năm tại Đức (kể từ thời
gian về Berlin) và 22
năm còn lại tại
Princeton.
Từ Princeton, Einstein
tiếp tục với những phát
minh chấn động. Einstein
cũng không ngừng dấn
thân đấu tranh cho hòa
bình thế giới. Oái oăm
xảy ra sau khi Mỹ ném
bom nguyên tử xuống
Nhật. Một lần nữa,
Einstein làm một cuộc
“di tản nội tâm” ngay
trên nước Mỹ.
Giấc mơ “hòa bình vĩnh
cửu”
TT - Đáng lẽ sau năm
1925, Einstein đã có thể
đi “câu cá” mà không cần
làm gì nữa, hưởng nhàn
sớm như Newton, như
nhiều người nói, nhưng
ông đã lao vào một công
cuộc kiếm tìm bản đồ
cuối cùng của thiên
nhiên vất vả nhất 30 năm
mà không đạt kết quả như
mong muốn. Cuộc đời ông
là một bản giao hưởng
dang dở.
Tiếp tục đi tìm chân lý
Giai đoạn 30 năm cuối
cùng của Einstein ở
Princeton (Mỹ) là giai
đoạn ông truy lùng
thuyết trường thống nhất
chung cho hấp lực
(thuyết tương đối rộng)
và sóng điện từ kể từ
lúc ông công bố những
kết quả đầu tiên về
thuyết trường thống nhất
năm 1925 cho hấp lực và
điện, nhưng chưa đạt ý
định.
Ông hi vọng qua đó đem
lại lời giải cuối cùng
cho cơ học lượng tử (do
những nhà vật lý học trẻ
như Bohr, Heisenberg,
Born... phát triển những
năm 1926 - 1927) mà ông
xem là chưa hoàn chỉnh.
Theo ông, “việc đi tìm
chân lý vẫn thú vị hơn
là sở hữu chắc chắn về
nó”.
Cả thế giới khoa học đổ
xô về con tàu lượng tử
đang chuyển bánh ngày
càng nhanh. Chỉ có
Einstein là người đứng
lại và không ngừng nêu
lên tính không hoàn
thiện của cơ học lượng
tử. Sau một phần tư thế
kỷ, với những nỗ lực phi
thường, vượt qua bao rào
cản của định kiến khoa
học, với cơ học lượng tử
con người đặt chân đến
vùng đất mới, bắt đầu
hiểu được một loạt tính
chất của thế giới vi mô
mà trước đây người ta
không thể nào hiểu được
với cơ học cổ điển. Đó
là cuộc cách mạng lượng
tử thứ nhất.
Vài thập niên sau, cuộc
cách mạng này gây ra
cuộc cách mạng công
nghiệp thứ nhất, tác
động sâu sắc đến bộ mặt
xã hội, kinh tế thế
giới. Transitor được
phát minh năm 1948, có
ảnh hưởng rất lớn đến
đời sống con người và
cho ra đời kỷ nguyên
thông tin. Phát minh
quan trọng thứ hai là
tia laser vào những năm
cuối của thập niên 1960.
Ứng dụng quan trọng nhất
của laser có lẽ là trong
ngành viễn thông. Nó đẩy
lưu lượng thông tin có
thể chuyển tải được
trong một sợi quang học
duy nhất lên đến
terabit, nghĩa là hàng
triệu của triệu bit
thông tin đi xuyên qua
đại dương. Một ứng dụng
khác là đồng hồ “nguyên
tử lạnh” có thể nâng độ
chính xác lên một giây
trong 30 triệu năm (đồng
hồ casium có độ chính
xác 1 giây trong 10
triệu năm)…
Năm 1935, sự phê phán cơ
học lượng tử của
Einstein đạt đến cao
điểm được thể hiện trong
bài báo cùng với hai
đồng nghiệp trẻ là Boris
Podolsky và Nathan
Rosen, mang tên “Sự mô
tả thực tế vật lý bằng
cơ học lượng tử có thể
xem là đầy đủ?”. Công
trình này, thường được
gọi tắt là “Nghịch lý
EPR” (tên viết tắt của
ba tác giả), nhằm chứng
minh rằng sự mô tả vật
lý bằng cơ học lượng tử
là không đầy đủ.
Nhưng rồi công trình EPR
đã bị giới vật lý quên
lãng, nó chỉ được xem
như một thí nghiệm ý
tưởng nhân tạo của
Einstein để phản biện cơ
học lượng tử. Vật lý
lượng tử như chấm dứt
một cách trọn vẹn ở đây.
Ba mươi năm sau (1964),
tức chín năm sau khi
Einstein mất, John Bell
là người tiếp tục công
việc và buộc thiên nhiên
phải “lè lưỡi” ra cho
xem một phần bí mật tinh
tế của nó.
Từ nghịch lý, EPR đã trở
thành hiệu ứng. Chính ở
hiệu ứng này người ta
mới bắt đầu hiểu thuyết
lượng tử ở chiều sâu của
nó. Nó cho thấy cái
thiên tính nhạy bén của
Einstein trong việc định
dạng những vấn đề cơ
bản. Hiệu ứng EPR cùng
với định lý Bell gây ra
cuộc cách mạng thứ hai
của cơ học lượng tử trên
thế giới. Cũng giống như
cuộc cách mạng thứ nhất,
nó đã và đang gây ra một
cuộc cách mạng công
nghiệp thứ hai cho thế
kỷ 21.
Einstein đi xuống trong
bộ đồ ngủ như thường lệ
để ăn sáng, nhưng hầu
như không đụng đến cái
gì cả. “Em yêu - ông nói
- anh có một ý tưởng
tuyệt vời”. Sau khi uống
cà phê, ông đi đến cây
đàn piano và bắt đầu
chơi. Thỉnh thoảng ông
lại ngừng và ghi chép,
rồi lặp lại: “Anh có một
ý tưởng tuyệt vời!”. Tôi
nói: “Vậy thì hãy kể cho
em nghe đi, đừng để em
sốt ruột”. Ông nói: “Khó
lắm, anh phải triển khai
nó cái đã”.
Ông vẫn tiếp tục đánh
piano và ghi chép khoảng
nửa giờ, sau đó đi lên
lầu vào phòng làm việc,
nói với tôi rằng ông
không muốn bị quấy rầy
và ở đó hai tuần liền.
Mỗi ngày tôi dọn thức ăn
lên cho ông và buổi tối
ông đi dạo để tập thể
dục, sau đó trở lên
phòng làm việc tiếp. Sau
cùng, ông ấy xuống khỏi
phòng làm việc, mặt rất
tái. “Đây là kết quả”,
ông ấy nói, mệt mỏi đặt
hai trang giấy trên bàn.
Và đó là thuyết tương
đối của ông.
Lời kể của Elsa Einstein
(người vợ thứ hai của
Einstein), được Charlie
Chaplin ghi lại trong
nhật ký
Máy tính lượng tử của
thế kỷ 21 sẽ xử lý thông
tin nhanh chưa từng
thấy. Tính chất buộc
chéo EPR sẽ có thể khởi
động cùng một lúc hàng
ngàn các phép tính khác
nhau. Nguyên tắc hoạt
động của máy tính lượng
tử trong tương lai sẽ
hoàn toàn khác. Cuộc
chạy đua trong những
lĩnh vực này đang diễn
ra mạnh mẽ trên toàn thế
giới.
Einstein nói với thư ký
Helen Dukas của mình
rằng có lẽ 100 năm sau
các nhà vật lý mới hiểu
những gì ông làm. Nhưng
mới 50 năm sau, sự quan
tâm về trường thống nhất
đã sống dậy mạnh mẽ.
“Di tản nội tâm”
Từ Princeton, Einstein
cũng không ngừng dấn
thân đấu tranh cho hòa
bình thế giới. Năm 1938,
nhà vật lý học người Đức
Otto Hahn phát hiện các
nguyên tử có thể bị tách
ra thành những hạt con,
sự phân hạch đó có thể
phát ra một năng lượng,
sức mạnh khủng khiếp của
năng lượng có thể tính
bằng công thức E=mc2.
Tin này lọt qua Mỹ,
những nhà khoa học Mỹ
quan ngại Đức có thể chế
tạo bom nguyên tử trước.
Ngày 2-8-1939, Einstein
gửi một lá thư đến Tổng
thống Mỹ Franklin
Roosevelt khuyến cáo
trước nguy cơ Đức có thể
có một chương trình sản
xuất bom nguyên tử và đề
nghị chính quyền Mỹ nên
xem xét một kế hoạch
nghiên cứu như thế. Đề
án Manhattan hình thành
với kinh phí 2 tỉ USD và
130.000 người tham gia.
Ông nói: “Tôi ý thức
nguy cơ khủng khiếp cho
nhân loại về sự thành
công của công việc này
(nghiên cứu chế tạo bom
nguyên tử). Nhưng khả
năng người Đức cũng cùng
làm việc này với triển
vọng thành công đã buộc
tôi đi đến việc làm này.
Giết chóc trong chiến
tranh theo quan điểm của
tôi không khác gì giết
chóc bình thường”. Sau
khi Mỹ ném hai trái bom
nguyên tử xuống Nhật
tháng 8-1945, Einstein
rất hối hận nói: “Nếu
tôi biết được rằng người
Đức không sản xuất được
bom nguyên tử thì tôi đã
không động đến một ngón
tay”.
Einstein chống lại chủ
nghĩa McCarthy trong
những năm 1950, kêu gọi
giới trí thức bất phục
tùng lệnh triệu tập thẩm
vấn của Ủy ban Hạ viện
về những hoạt động bị
cho là chống Mỹ, một
loại tòa án La Mã mới,
kể cả nếu phải bị đi tù
bằng cách dựa vào quyền
tự do ngôn luận bất khả
xâm phạm của con người
được bảo vệ trong hiến
pháp.
Bức thư kêu gọi bất phục
tùng được đăng tải trên
New York Times ngày
12-6-1953 và gây ra phản
ứng bùng nổ trong dư
luận. Tất cả những tờ
báo lớn trong các lời
bình luận của họ đều “từ
chối một cách lịch sự”
lời kêu gọi của ông.
Einstein bị gán cho danh
hiệu “gián điệp cộng
sản” trong một hồ sơ mật
dài 1.427 trang về ông
của Cục Điều tra liên
bang Mỹ (FBI) và “đáng
lẽ phải bị trục xuất
khỏi nước Mỹ từ lâu”.
Ngày 26-8-1949, Liên Xô
thử bom nguyên tử đầu
tiên. Cuộc chạy đua vũ
trang hạt nhân qui mô
bắt đầu. Nhân loại đứng
trước nguy cơ một cuộc
chiến tranh khốc liệt
hơn tất cả những cuộc
chiến tranh trong quá
khứ. Einstein tiếp tục
cuộc chiến đấu mới chống
lại sự vũ trang hạt nhân
cho sự sống còn của nhân
loại. Ông đề nghị thành
lập một chính phủ thế
giới: hoặc một chính phủ
thế giới, hoặc sẽ không
còn thế giới nữa. Ý
tưởng của ông nối tiếp ý
tưởng về một cộng đồng
thế giới của các dân tộc
có chủ quyền, sống hòa
bình, độc lập và tự do
trong một thể chế liên
bang trong giấc mơ “hòa
bình vĩnh cửu” của
Immanuel Kant.
Einstein ngày càng cô
đơn trong giới khoa học.
Năm 1949, ông viết cho
người bạn Maurice
Solovine của Viện hàn
lâm Olympia: “Bạn nghĩ
rằng chắc tôi nhìn lại
một sự nghiệp cuộc đời
với sự thỏa mãn âm thầm.
Nhưng thực tế khác hẳn
nếu nhìn gần. Tôi vẫn
tiếp tục làm khoa học
không mệt mỏi, nhưng đã
trở thành một người tà
giáo khó chịu trong mắt
nhiều người. Đó là vì
thời trang và tính cận
thị. Cái quí nhất còn
lại là một vài người bạn
hiền, kiên định và hiểu
được nhau”.
Những năm cuối đời ở
Princeton, Einstein
chứng kiến thêm một lần
nữa, lần này trên nước
Mỹ, những cảnh tượng
trước đây đã khiến ông
rời bỏ nước Đức ra đi:
chủ nghĩa quân sự, cơn
sốt vũ trang, chủ nghĩa
McCarthy theo dõi và
truy bức những người
tiến bộ, giới hạn quyền
tự do con người. “Tôi đã
ngồi 17 năm ở Mỹ mà
không tiếp thu được điều
gì từ nếp nghĩ của đất
nước này và cần giữ mình
cho khỏi hời hợt trong
tư duy và cảm xúc”. Một
lần nữa, ông làm một
cuộc “di tản nội tâm”
ngay trên nước Mỹ.
_______________________
“Tôi đã làm xong việc
của tôi trên quả đất”.
Bí mật cuối cùng
Einstein mang theo là
những tiếng thều thào
bằng tiếng Đức trước lúc
lâm chung, cô y tá trực
lại không hiểu tiếng
Đức. Nhưng không cần 100
năm sau, thế giới đã
hiểu Einstein…
Nhà giáo dục nhân bản
Tạp chí Time (Mỹ) bình
chọn Einstein là “Nhân
vật của thế kỷ 20”
TT - Einstein mất ngày
18-4-1955 tại Princeton,
Mỹ, hưởng thọ 76 tuổi.
Lễ truy điệu được tổ
chức đơn giản trong vòng
bạn bè thân thiết nhất.
Theo di chúc của ông,
không có điếu văn, nghi
lễ, không hoa, không
nhạc, không bia mộ. Otto
Nathan, người thực hiện
di chúc của ông, bước
tới quan tài để đọc mấy
dòng thơ của Goethe có
hai câu kết: “Ông tỏa
sáng trước chúng ta, như
một sao chổi rồi vụt
biến. Ánh sáng vô tận -
quyện với ánh sáng của
ông”.
Vài giờ trước khi mất,
Einstein lặp lại với
Margot, con gái của ông:
“Tôi đã làm xong việc
của tôi trên quả đất”.
Bí mật cuối cùng ông
mang theo là những tiếng
thều thào bằng tiếng Đức
trước lúc ông chấm dứt
cuộc hành trình để vĩnh
viễn trở về với cát bụi.
Cô y tá trực không biết
một chữ Đức nào. “Những
lời nói sau cùng của con
người khổng lồ trí thức
đã bị mất đi vào thế
giới”, đó là hàng chữ to
trên tờ New York Times
ngày hôm sau. Khi mất,
Einstein để lại di chúc
yêu cầu đem tro của mình
rải vào không gian ở nơi
không ai biết.
“Cơn ác mộng” thi cử
Nhìn lại cuộc đời và sự
nghiệp của mình,
Einstein xác định yếu tố
giáo dục và suy nghĩ độc
lập quyết định con đường
đi của mình. Ông nhớ
lại: “Khi dọn về Aarau ở
Thụy Sĩ năm 1896 và vào
trường đại học bách khoa
kỹ thuật, lần đầu tiên
tôi mới ý thức rằng tôi
không thích như thế nào
cách nhồi nhét và học
thuộc lòng, cách dạy của
môn toán. Tôi tin rằng
sở thích vật lý của tôi
hình thành vào thời điểm
này”. Ông nói mục đích
của nhà trường là “phải
để con người trẻ phát
triển trong một tinh
thần mà những nguyên tắc
này (sự phát triển tự do
và tự chịu trách nhiệm
của cá nhân) trở thành
tự nhiên như không khí
người đó thở. Chỉ có dạy
thôi thì không đạt được
gì cả”.
Về việc học nhồi nhét,
Einstein nói: “Tôi nghĩ
người ta có thể làm mất
đi tính háu ăn của một
con thú ăn thịt sống nếu
cứ bắt nó phải ăn dưới
roi vọt, ngay cả khi nó
không đói, đặc biệt khi
người ta tự chọn cho nó
những thức ăn dưới áp
lực đó”.
Chính trong thời gian
tại sở sáng chế ở Bern,
không bị áp lực và sự
lôi cuốn của bộ máy hàn
lâm, Einstein mới có đủ
sự yên tĩnh và bình tĩnh
để phát triển, kiến tạo
những ý tưởng mới của
ông. Ông kể: “Bởi vì
nghề nghiệp hàn lâm đặt
một người nghiên cứu trẻ
vào một loại tình huống
bắt buộc là phải sản
xuất các bài nghiên cứu
khoa học với số lượng
gây ấn tượng - một sự
cám dỗ dẫn đến sự hời
hợt mà chỉ có những cá
tính mạnh mới có khả
năng cưỡng lại được”.
Einstein rất ghét việc
chạy theo thi cử và
thành tích: “Thời còn đi
học của tôi, ngay khi
ngày thi được công bố,
tôi bị dồn vào một áp
lực đến nỗi tôi có cảm
giác mình không phải
bước vào một kỳ thi mà
bước lên một đoạn đầu
đài. Trí óc của tôi sau
những kỳ thi (cử nhân)
hoàn toàn bị tắc nghẽn
một thời gian cho hoạt
động nghiên cứu và phân
tích khoa học. Khả năng
trí óc của tôi hoàn toàn
bị cạn kiệt bởi phải học
thuộc lòng những thông
tin vô bổ”.
Sau một năm ông mới bắt
đầu lại công việc khoa
học. Giáng sinh năm
1917, tờ Berliner
Tageblatt đăng một bài
báo của Einstein, tựa đề
“Cơn ác mộng”. Thi cử
đối với ông là ác mộng.
Ông đã đề nghị xóa bỏ
các kỳ thi tú tài, vì nó
vô ích và có hại, vì khi
thầy cô đã biết rõ học
lực của một học sinh
trong nhiều năm liền thì
không cần thiết phải thi
nữa.
Ông cũng không xây dựng
một trường phái nào,
không muốn áp đặt tư duy
cho ai. Ông nói với tư
cách là người thầy với
trái tim rộng mở: “Tôi
không bao giờ dạy học
sinh, tôi chỉ cố gắng
tạo ra những điều kiện
để chúng có thể học”.
Người “lữ hành cô đơn”
Giá trị lớn của cuốn
sách Einstein (Nguyễn
Xuân Xanh, NXB Tổng Hợp
TP.HCM xuất bản tháng
2-2007) là trình bày
sinh động quá trình tư
duy, phương pháp luận,
tố chất của con người
Einstein để dẫn đến
những phát minh đó.
Bạn đọc không nhất thiết
phải am hiểu về vật lý
lý thuyết hoặc thuyết
tương đối để đọc cuốn
sách này. Bạn đọc trẻ có
thể học được từ cuốn
sách những đức tính quí
báu cho cuộc đời mình,
đó là sự lao động trung
thực, đức tính hoài nghi
những chân lý được coi
là vĩnh hằng, sự yêu tự
do tư tưởng, sự đấu
tranh không khoan nhượng
trước những giáo điều
không hề được thực tế
chứng minh, sự dấn thân
vì chân lý, vì hòa bình,
vì tương lai của nhân
loại.
Những đức tính như óc tò
mò, trí tưởng tượng, sự
kiên trì, tinh thần
không chịu khuất phục
trước bất kỳ quyền lực
áp đặt nào, đó là những
bài học sinh động mà bạn
đọc có thể tìm thấy qua
những phát biểu, những
ví dụ sinh động trong
cuộc đời của Einstein.
Cuốn sách ra mắt bạn đọc
đúng lúc khi đất nước ta
đang rất cần trí tuệ, sự
sáng tạo, khả năng suy
nghĩ và hành động tìm
tòi cái mới, đột phá để
vươn lên trong cạnh
tranh toàn cầu. Vì vậy,
nó là một đóng góp rất
có ích cho công cuộc cải
cách kinh tế, đổi mới
giáo dục hiện nay.
TS Lê Đăng Doanh
Trong chuyến đi Mỹ năm
1921, tại Boston,
Einstein được đưa cho
bảng câu hỏi Edison để
trả lời, người ta muốn
xem ông trả lời đúng đến
đâu như một trắc nghiệm
thông minh. Đến câu hỏi
về vận tốc âm thanh, ông
trả lời: “Điều đó tôi
không biết. Tôi không
muốn làm nặng nề trí nhớ
của tôi với những sự
kiện như thế, những thứ
mà tôi có thể tìm thấy
dễ dàng trong bất cứ từ
điển bách khoa nào”.
Ông cũng không đồng ý
với quan điểm của Edison
cho rằng kiến thức quan
trọng hơn giáo dục đại
học. Ông trả lời: “Đối
với con người, kiến thức
không quan trọng lắm. Để
có kiến thức con người
không cần đến đại học.
Cái đó người ta có thể
học từ sách. Giá trị của
giáo dục đại học không
nằm ở chỗ học thuộc lòng
thật nhiều kiến thức mà
ở chỗ tập luyện tư duy,
cái mà người ta không
bao giờ học được từ sách
giáo khoa”.
Einstein cho rằng tệ nạn
xấu nhất của chủ nghĩa
tư bản là “làm què quặt
cá nhân”. “Cả hệ thống
giáo dục chúng ta đau
khổ vì tệ nạn này. Một
thái độ cạnh tranh quá
đáng được khắc sâu vào
sinh viên, anh ta được
huấn luyện để tôn thờ sự
thành công hám lợi như
một sự chuẩn bị cho sự
nghiệp tương lai”,
Einstein nói. Đạo đức
đối với ông là tiêu
chuẩn hàng đầu: “Một
tính cách tốt và vững
vàng có giá trị hơn khả
năng hiểu biết và sự
uyên bác”. Nền tảng của
tất cả mọi giá trị của
con người là đạo đức.
Einstein cho rằng mục
tiêu (của nhà trường)
phải là sự đào tạo nên
những cá nhân tự hành
động và tư duy nhưng
biết nhìn thấy trong
việc phục vụ xã hội
nhiệm vụ cao cả nhất của
cuộc đời. Einstein từng
phát biểu: “Tôi tin rằng
sự sa sút khủng khiếp
trong tư cách đạo đức
của con người trước nhất
có liên quan đến sự máy
móc hóa và sự làm mất đi
tính chất cá nhân trong
cuộc sống của chúng ta -
một sản phẩm phụ bất
hạnh của sự phát triển
tinh thần khoa học - kỹ
thuật. Lỗi của chúng
ta”.
Trong quan hệ giữa cộng
đồng và cá nhân,
Einstein đặt nặng vai
trò của cá nhân: “Bởi vì
tất cả những gì vĩ đại
và cao cả đều được tạo
ra bởi cá nhân trong sự
phấn đấu tự do”. Chính
cá nhân tạo ra tài sản
văn hóa cho nhân loại.
Ông nói: “Có thể dễ dàng
nhận thấy rằng tất cả
những tài sản vật chất,
tinh thần và đạo đức mà
chúng ta nhận được từ xã
hội xuất phát từ những
nhân cách đơn lẻ qua vô
số thế hệ. Chỉ cá nhân
đơn lẻ mới tư duy và qua
đó mới tạo ra những giá
trị mới cho xã hội”.
Einstein chứng kiến
trong thế kỷ 20 vô số cá
nhân phải chịu số phận
nghiệt ngã trước sự
khước từ của xã hội, của
số đông, của chính quyền
đại diện họ.
Chính số đông đã để mình
chịu khuất phục dễ dàng
trước các quyền lực
chính trị, để đẩy nhau
vào nỗi bất hạnh, trong
khi “một số ít người
không tham gia vào cách
suy nghĩ thô bạo của số
đông, vẫn sống theo lý
tưởng tình yêu con
người, không bị ảnh
hưởng bởi những đam mê
của họ thì phải chịu một
số phận bi thảm hơn
nhiều: họ bị ném ra khỏi
xã hội và bị đối xử như
những kẻ bị hủi nếu họ
không chịu làm những
hành động mà lương tâm
họ chống lại, và im lặng
hèn nhát về những gì họ
thấy và cảm nhận”.
Einstein vốn sống cô
đơn. Bất cứ ở nơi nào,
Thụy Sĩ, Prague, Berlin
hay Princeton, ông đều
có cảm giác là người xa
lạ và ngoài cuộc. Ngoài
cái cô đơn do khoa học,
Einstein còn nỗi cô đơn
riêng của một người
không lúc nào thuộc hẳn
vào thế giới này. Ông
vẫn là người “lữ hành cô
đơn” không bến đỗ trên
đường đi tìm chân lý của
mình, con đường ông đi
sẽ đưa ông về một chân
trời vô định và chỉ còn
một mình ông trên đó.
Tuổi Trẻ online
|