Những bài cùng tác giả
Kỷ niệm 200 năm thuyết tiến hóa của Darwin
Kỷ niệm 200 năm ngày sinh
Charles Robert
Darwin (12/02/1809 — 19/04/
1882) và 150 năm Tác Phẩm On the Origin of
Species (Nguồn Gốc của các Chủng Loại)
1809 là
năm chào đời của các danh nhân trên thế giới
như Abraham Lincoln, vĩ nhân giải phóng nô
lệ, Charles Darwin, nhà sinh vật học lừng
danh, William Gladstone, Thủ Tướng của nước
Anh, Felix Mendelssohn, nhạc sĩ tài hoa, các
thi nhân như Edgar Allen Poe, Elizabeth
Bannett Browning, Alfred Tennyson.
Trong
số các danh nhân kể trên và trong số hàng
triệu người ra đời trong thể kỷ 19, ngoại
trừ Karl Marx, Charles Darwin đã làm thay
đổi các khuynh hướng tư tưởng của Nhân Loại,
tạo nên một hướng nhìn mới.
Cuốn sách “Về Nguồn Gốc của các Chủng Loại
do Cách Chọn Lựa Tự Nhiên” (On the Origin of
Species by Means of Natural Selection) của
Charles Darwin đã là một khúc quanh của nền
Khoa Học mới, tạo nên một lý thuyết gây
chấn
động cho tới thời gian gần đây, ảnh hưởng
sâu đậm không chỉ vào phạm vi suy nghĩ khoa
học mà còn tới các địa hạt Triết Học, Tôn
Giáo và các ngành tư tưởng khác.
Ngày nay, các nguyên tắc căn bản của lý
thuyết Darwin hầu như được toàn thế giới
khoa học chấp nhận nhưng khởi đầu, lý thuyết
này đã gây nên sóng gió trong gần một thế
kỷ. Khởi đầu vào năm 1860 là vụ tranh luận
tại thành phố Oxford, với rất nhiều cuộc
tranh cãi khác rồi tới năm 1925 là “vụ kiện
con khỉ” (Monkey trial) tại tiểu bang
Tennessee, Hoa Kỳ, và các tranh luận chỉ
nguôi dần qua thời gian.
![](images/darwin.jpg) ![](images/darwin03.jpg)
1/ Vụ kiện “Con
Khỉ”.
Vào năm 1925, tiểu bang Tennessee của Hoa Kỳ
thông qua Đạo Luật Butler (the Butler Act)
cấm đoán việc giảng dạy Thuyết Tiến Hóa tại
các trường học trong tiểu bang. Các chống
đối đã diễn ra và một vụ kiện được đưa ra
trước Công Lý. Bị lôi ra trước Tòa là ông
John T. Scopes, 24 tuổi, giáo sư Khoa Học và
ông bầu của đội banh bầu dục. Ông Scopes thú
nhận rằng mình đã vi phạm luật do giảng dạy
lý thuyết của Charles Darwin. Vì vậy vào
tháng 7 năm đó đã xẩy ra “vụ kiện Scopes con
khỉ” (Scopes Monkey Trial) mà các nhà sử học
về Luật Pháp coi đây là vụ án của thế kỷ.
Vụ án này là tiêu đề lớn nhất trên toàn quốc
Hoa Kỳ, đã chế ngự mọi loại thông tin, các
báo chí, các hệ thống truyền thanh, đã làm
sáng tỏ các lý lẽ liên quan tới Hiến Pháp
Hoa Kỳ, tương tự như vấn đề ngăn cách Nhà
Thờ và Quốc Gia (separation of church and
state), như nền tự do học vấn (academic
freedom) cũng như việc diễn đạt Tu Chính Án
Thứ Nhất (the First Amendment). Nhưng chính
các nhân vật trong vụ tranh cãi đã khiến cho
vụ án trở nên một màn kịch.
Luật sư bên bị là ông Clarence Darrow, đã
đối đầu với một nhân vật đã từng ba lần làm
ứng viên Tổng Thống và cũng là một tín đồ
Thiên Chúa Giáo thuần thành, đây cũng là nhà
hùng biện danh tiếng William Jennings Bryan.
Sau khi quan tòa ngăn cản việc đưa ra nhân
chứng là các chuyên gia khoa học, luật sư
Darrow đã kêu gọi công tố viên Bryan đứng
làm chuyên gia về Thánh Kinh. Trong sức nóng
bức của tháng 7, ông Darrow không ngừng đặt
các câu hỏi về Thánh Kinh khiến cho cuối
cùng ông Bryan phải thú nhận rằng “sự sáng
tạo ra con người có thể cần tới hàng triệu
năm” mà không phải chỉ trong 6 ngày, theo
như Sách Sáng Thế (Genesis). Như vậy nhiều
người đã tin rằng luật sư bên bị đã thắng vẻ
vang về lý thuyết Tiến Hóa. Chiến thuật của
bên bị là đặt vấn đề bất hợp hiến của Đạo
Luật Butler, còn bên nguyên truy tố ông
Scopes đã vi phạm luật. Cuối cùng bồi thẩm
đoàn kết luận rằng ông Scopes “phạm tội”
(guilty), đây chính là điều bên bị mong
muốn! Bản án “phạm tội” này được chống án
lên Tòa trên, là nơi sẽ tiêu hủy Đạo Luật
Butler chống Thuyết Tiến Hóa. Tuy nhiên việc
chống án chỉ được xét xử vào năm 1967 trong
khi các hội đồng giáo dục của vài tiểu bang
Hoa Kỳ đã bỏ thăm không đề cập tới Thuyết
Tiến Hóa trong các câu hỏi thi trắc nghiệm
khi mà việc giảng dạy lý thuyết này còn
trong vòng tranh cãi.
2/ Thời kỳ đi học
và đi khảo sát của Charles Darwin.
![](images/darwin-7ans.jpg)
Charles Darwin 7 tuổi, một năm trước ngày mẹ
mất
Charles Robert Darwin là cháu của hai người
ông danh tiếng và giàu có sống trong thời
đại Victoria của nước Anh. Ông nội Eramus
Darwin là một vị thầy thuốc và nhà tư tưởng
phóng khoáng, còn ông ngoại Josiah Wedgwood
là nhà sáng lập lò gốm Wedgwood và cũng là
một nhân vật hàng đầu trong cuộc Cách Mạng
Kỹ Nghệ tại nước Anh. Cha của Charles Darwin
là ông Robert Darwin, một bác sĩ tài giỏi
còn mẹ là bà Susannah Wedgwood. Charles
Darwin chào đời vào ngày 12 tháng 2 năm 1809
trong gia đình có người anh Eramus lớn hơn 4
tuổi. Gia đình này sống trong một tòa nhà
lớn bên ngoài thị xã Shrewsbury.
Khi còn nhỏ tuổi, Darwin không tỏ lộ một hứa
hẹn nào rằng sau này sẽ trở nên một nhà khoa
học lừng danh trên thế giới. Tuy xuất thân
từ một gia đình gồm các học giả và nhà
chuyên môn nhưng Darwin không phải là một
học sinh xuất sắc. Tại trường tiểu học, cậu
Charles chán nản trước tiếng La Tinh và
chương trình giáo dục cổ điển kém uyển
chuyển. Cậu bị vị hiệu trưởng trách mắng vì
đã phí thời giờ vào các thí nghiệm hóa học
hay vào công việc thu thập các côn trùng,
các mẫu đá. Theo bước chân của cha, Charles
được gửi tới trường Đại Học Edinburg vào
tuổi 16 để theo học Y Khoa. Sau hai năm học
tại trường này, cậu nhất định rằng ngành Y
không thích hợp nên được chuyển sang Đại Học
Cambridge để sau này phục vụ cho Nhà Thờ Anh
Cát Giáo.
Charles Darwin đã coi ba năm dài tại trường
đại học sau này là phí phạm thời gian nhưng
dù thế, Darwin đã hưởng lợi to lớn nhờ quen
biết hai vị thầy nhiều ảnh hưởng, đó là ông
John Stevens Henslow, giáo sư môn Thực Vật,
và ông Adam Sedgwick, giáo sư môn Địa Chất.
Nhờ hai vị thầy này chỉ dẫn, Darwin đã trải
qua nhiều thời giờ trong các cuộc du khảo,
thu lượm các loại côn trùng và thực tập cách
quan sát thiên nhiên.
![](images/HMSBeagl02.jpg)
Tầu H.M.S. Beagle
Nhờ sự giới thiệu của Giáo Sư Sedgwick,
Darwin được đề nghị đảm nhận chức vụ nhà tự
nhiên học (naturalist) trên con tầu hải quân
Beagle đi thực hiện một chuyến khảo sát kỹ
càng miền nam bán cầu. Tầu H.M.S. Beagle là
một con tầu nhỏ, dài 90 ft, rộng 24 ft nên
căn phòng dành cho Darwin rất chật hẹp.
Nhiều năm về sau khi nhìn lại cuộc hành
trình này, Darwin đã coi đây là “một biến cố
quan trọng nhất trong đời của tôi”. Trong 5
năm trường từ 1831 tới 1836, con tầu biển
Beagle đã ghé vào hầu như tất cả các lục địa
và các hòn đảo chính khi nó chạy vòng quanh
trái đất. Darwin đã phục vụ bằng các công
việc của nhà địa chất, nhà thực vật, nhà
động vật và một nhà khoa học tổng quát, đây
là một chuẩn bị đầy đủ dành cho cuộc đời
khảo cứu và viết sách của ông sau này. Tại
mỗi nơi đi qua, Darwin đều thu lượm thật
nhiều cây cỏ và thú vật, các vật hóa thạch
và các sinh vật, các hình thức sống trên mặt
đất hay dưới biển. Ông đã nghiên cứu bằng
con mắt của một nhà tự nhiên học các hệ thực
vật và hệ động vật (the flora and fauna) của
nhiều miền đất và miền biển, tìm kiếm thật
nhiều mẫu vật trên các cánh đồng hoang của
xứ Argentina, trên sườn núi khô cằn của rặng
núi Andes, nơi các hồ muối hay các sa mạc
của xứ Chile và Australia, trong rừng rậm
của xứ Brazil, Tierra del Fuego và Tahiti,
trên hòn đảo Cape Verde trơ trụi. Các nơi
khảo sát của Darwin còn là các cấu tạo địa
chất của bờ biển và miền núi Nam Mỹ, các
ngọn núi lửa đang hoạt động hay đã tắt trên
các hòn đảo hay đất liền, các đảo san hô,
các hóa thạch của động vật có vú nơi miền
Patagonia, các dấu vết suy tàn của con người
tại Peru và cả các thổ dân của miền Tierra
del Fuego và Patagonia.
Nhưng qua tất cả các miền đã từng thăm viếng
và khảo cứu, không nơi nào gây ấn tượng mạnh
tới Darwin hơn quần đảo Galapagos, nằm cách
bờ biển Nam Mỹ 500 dặm về phía tây. Trên hòn
đảo cô liêu, không người cư ngụ này, chỉ gồm
các ngọn núi lửa trơ trụi, Charles Darwin đã
nhìn thấy các con rùa khổng lồ, các con thằn
lằn thực to lớn chưa từng thấy trên thế
giới, các con cua và sư tử biển quá cỡ. Ông
cũng đặc biệt nhận thấy rằng các con chim
tại nơi đây tương tự như thứ chim trên các
hòn đảo bên cạnh nhưng không giống hệt.
Ngoài ra đã có sự thay đổi trong các loại
chim khác nhau từ hòn đảo này sang hòn đảo
khác.
Hiện tượng lạ lùng của các sinh vật trên
quần đảo Galapagos cộng với các sự kiện chắc
chắn đã được ghi nhận trước kia tại miền Nam
Mỹ đã tăng cường các ý tưởng về tiến hóa bắt
đầu hình thành trong đầu óc của Darwin. Ông
Darwin đã ghi trong sổ tay như sau: “tôi đặc
biệt ngạc nhiên thứ nhất vì các hóa thạch
của động vật có vẩy như loại armadillo hiện
có, thứ hai vì cách thức các động vật liên
hệ gần đã thay thế nhau trên lục địa khi đi
dần về phía nam và thứ ba, các sinh vật đổi
thay khác nhau đôi chút trên các hòn đảo
Galapagos dù cho các đảo này không rất cổ
theo ý nghĩa địa chất”. Charles Darwin đã
không hiểu ngay ý nghĩa của sự thay đổi hình
thức bên ngoài của các sinh vật, ông đã ghi
chép tất cả nhận xét để sau này nghiên cứu
khi trở về nước Anh. Ông không chấp nhận các
giáo điều trong Sách Sáng Thế (Genesis) theo
đó mọi chủng loại đã được tạo nêncùng một
lúc và không thay đổi qua thời gian.
![](images/darwin-origin.jpg)
Sau khi trở về nước Anh, Charles Darwin cho
xuất bản vào năm 1839 cuốn “Tạp Chí Khảo Cứu
Địa Chất và Khoa Học Tự Nhiên của các Quốc
Gia khác nhau do chuyến đi trên con tầu
Beagle” (Journal of Researches into the
Geology and Natural History of the Various
Countries Visited by H.M.S. Beagle) và ông
bắt đầu suy nghĩ về lý thuyết của sự tiến
hóa hữu cơ (organic evolution) theo đó các
chủng loại thay đổi không chỉ từ nơi này
sang nơi khác mà còn qua các thời đại địa
chất, ông muốn khám phá ra lý do của các
thay đổi và đồng thời, Darwin viết cuốn sách
“Nguồn Gốc của các Chủng Loại” (The Origin
of Species). Bản phác thảo đầu tiên gồm 35
trang viết vào năm 1842, qua năm 1844 đã
được nới rộng thành 230 trang. Từ đầu, bài
toán bí ẩn là làm sao cắt nghĩa đời sống hữu
cơ (organic life) đã bắt đầu phát triển kể
từ thời khởi đầu của trái đất, cắt nghĩa sự
xuất hiện và biến đi của các loài vật. Tại
sao các loài vật đã sinh ra, bị thay đổi qua
thời gian, phân chia thành các ngành khác
nhau và thường khi biến mất hoàn toàn?
3/ Lập gia đình và
nghiên cứu Khoa Học.
Vào ngày 19/1/1839, Charles Darwin kết hôn
với cô em họ gần tên là Emma Wedgwood. Cặp
vợ chồng này cư ngụ tại Bloomsbury trong một
căn nhà chứa nhiều mẫu vật giống như một
viện bảo tàng rồi 3 năm sau, họ dọn qua làng
Downe thuộc hạt Kent, một miền quê hẻo lánh.
Ông bà Darwin đã có 10 người con, 2 đứa trẻ
đã bị chết yểu, một người con gái tên là
Annie được yêu thương nhất đã qua đời năm
lên 10 tuổi, còn lại 7 người con khác đều có
cơ thể yếu đuối.
Trong 20 năm trường, Charles Darwin đã biên
soạn cuốn sách “Nguồn Gốc” kể trên, cụ thể
hóa các lý thuyết của mình. Ông đã đọc vô số
tài liệu: tạp chí, sách du lịch, sách thể
thao, sách dạy trồng hoa, sách dạy nuôi súc
vật và sách lịch sử tự nhiên. Ông đã nói
chuyện với nhiều nhà gây giống cây và thú
vật, đã gửi câu hỏi tới nhiều người hiểu
biết. Ông sưu tầm các bộ xương của các con
vật đã được thuần hóa, so sánh chúng với
xương của các con vật hoang dã. Ông đã khảo
cứu các trái cây và hạt giống nổi và di
chuyển trên mặt nước biển. Ông đã dùng các
dữ kiện thu lượm được trong cuộc hành trình
trên con tầu biển Beagle để giải đáp nhiều
bài toán liên quan tới thực vật học, động
vật học, địa chất học, cổ sinh vật học...
Charles Darwin đã dùng cách chọn lựa nhân
tạo (artificial selection) của các con vật
và cây cối thuần hóa: chó, mèo, ngựa, lúa
mì, lúa mạch, các loại hoa vườn... mà con
người đã lai tạo để có được thứ giống vật có
lợi cho nhu cầu. Như vậy nhiều chủng loại
mới đã được phát triển do chọn lựa. Ông đã
lý luận rằng nếu sự tiến hóa được thực hiện
do cách chọn lựa nhân tạo thì thiên nhiên
cũng có thể hoạt động theo cùng một phương
thức do cách chọn lựa tự nhiên (natural
selection)? Tuy nhiên, trong hoàn cảnh thiên
nhiên, đã xẩy ra cuộc tranh đấu để sống còn.
Ông đã quan sát thấy một số lớn chủng loại
đã bị chết đi, chỉ một phần nhỏ sống sót.
Vài loại động vật là thức ăn của các loại
động vật khác. Sự tranh đấu tiếp tục không
ngừng và cuộc cạnh tranh dữ dội đã diệt đi
chủng loại nào không thích hợp với sự sống
còn. Các thay đổi về chủng loại đã xẩy ra để
đáp ứng các điều kiện cần thiết vì sự sống
còn (survival).
4/ Lý thuyết Tiến
Hóa ra đời.
Chìa khóa của lời bí ẩn đối với Darwin do
đọc cuốn sách “Khảo Luận về Dân Số” (Essay
on Population) của Thomas Robert Malthus.
Malthus đã cho biết sự việc cung cấp thực
phẩm đã kiểm soát mức độ gia tăng dân số và
số tăng thêm của con người trên trái đất bị
chặn lại vì các hạn chế tích cực như tai
nạn, bệnh tật, chiến tranh và nạn đói kém.
Như vậy các yếu tố tương tự có thể áp dụng
vào các sinh vật và thực vật. Darwin đã
viết: “Từ sự quan sát lâu dài các thói quen
của sinh vật và thực vật, tôi nhận ra rằng
trong các hoàn cảnh sống, các chủng loại
thích nghi thường được duy trì và các chủng
loại không biết thích nghi sẽ bị tiêu diệt.
Kết quả của sự kiện này là các chủng loại
mới được sinh ra”.
Như vậy đã ra đời Chủ Thuyết Darwin danh
tiếng về “chọn lựa tự nhiên” (natural
selection), “tranh đấu để sống còn”
(struggle for existence) hay “sự sống còn
của kẻ thích hợp nhất” (survival of the
fittest), và đây là nền móng của cuốn sách
“Nguồn Gốc của các Chủng Loại”. Charles
Darwin đã cố gắng thiết lập các chứng cớ rất
đồ sộ khiến cho ông không vội phổ biến công
trình nghiên cứu cho tới thập niên 1850 bởi
vì bà vợ Emma của ông là một người rất sùng
đạo Thiên Chúa, bà đã khiến chồng thường
xuyên phải đóng góp cho nhà thờ, giúp đỡ các
kẻ nghèo khó và biểu lộ tấm lòng mộ đạo.
Nhưng rồi do sự thúc giục của các bạn thân,
Darwin chuẩn bị một tác phẩm nhiều tập. Công
trình được nửa chừng thì một tiếng sấm lớn
vọng tới. Charles Darwin nhận được một bức
thư từ Alfred Russel Wallace, một nhà khoa
học thâm niên, hiện đang thám hiểm về sinh
học tại quần đảo Mã Lai. Wallace cho biết
rằng ông ta đang suy nghĩ về nguồn gốc của
các loài vật và giống như Darwin, cũng bị
ảnh hưởng khi đọc tác phẩm của Malthus. Bức
thư của ông Wallace có đi kèm với một khảo
sát có tên là “Khảo luận về chiều hướng biến
đổi vĩnh viễn xuất phát từ loài gốc” (Essay
on the Tendency of Varieties to Depart
Indefinitely from the Original Type). Đây
cũng chính là lời minh xác của Darwin.
Charles Darwin hiện đang ở trong tình trạng
khó xử. Rõ ràng là cả hai nhân vật này do
nghiên cứu độc lập với nhau, đã đi tới cùng
các câu kết luận giống nhau, trong khi
Darwin đã bỏ ra nhiều năm suy nghĩ và tìm
kiếm, còn ý tưởng của Wallace được dẫn tới
do trực giác. Nhiều nhà khoa học có cảm tình
với Darwin muốn ông được ghi công do các
nghiên cứu lâu dài đã qua, nên đã xếp đặt
một buổi công bố các công trình của hai nhà
khoa học tự nhiên. Darwin và Wallace được
mời trình bày các tìm kiếm của mình trước
Hội Khoa Học Linnaean (the Linnaean Society)
và văn bản đầu tiên về Lý Thuyết Tiến Hóa
(the theory of evolution) được phổ biến vào
buổi chiều ngày 01 tháng 7 năm 1858. Sau đó
cả hai bài khảo sát được đăng trên Tạp Chí
của Hội Khoa Học Linnaean.
Do sự việc tìm kiếm của ông Wallace, Charles
Darwin ngưng việc soạn thảo một tác phẩm
thật lớn mà viết một khảo cứu tóm lược. Vào
cuối năm 1859, tác phẩm của Charles Darwin
đã trở nên một cái mốc của Lịch Sử Khoa Học
và được ông John Murray xuất bản tại thành
phố London. Ấn bản đầu tiên gồm 1,200 cuốn
đã bán hết trong vài ngày đầu. Các ấn bản
khác chỉ bán tại nước Anh đã lên tới 24,000
cuốn và đã được dịch sang hầu hết các ngôn
ngữ chính. Bản gốc của tác phẩm của Charles
Darwin có tên là: “Về Nguồn Gốc của các
Chủng Loại do Cách Chọn Lựa Tự Nhiên” (On
the Origin of Species by Means of Natural
Selection), hay “Sự Duy Trì các Dòng Giống
thích ứng trong cuộc Tranh Đấu vì Lẽ Sống”
(The Preservation of Favoured Races in the
Struggle for Life). Nhan đề dài của cuốn
sách đã được rút gọn thành: “Nguồn Gốc của
các Chủng Loại” (Origin of Species).
Các căn bản của lý thuyết của Darwin đã được
thảo luận trong 4 chương đầu của tác phẩm
“Nguồn Gốc”. Các chương sau đề cập tới ngành
địa chất học, việc phân phối thực vật và
sinh vật, các sự kiện thích hợp với sự phân
loại, hình thái học và phôi thai học, và
cuối cùng dẫn tới phần kết luận.
Tác phẩm “Nguồn Gốc của các Chủng Loại” từ
phần đầu đã mô tả các thay đổi nơi thú vật
và cây cỏ do con người kiểm soát, các biến
đổi do “chọn lựa nhân tạo” so với các thay
đổi trong thiên nhiên hay “chọn lựa tự
nhiên” và chủ thuyết Darwin đã kết luận rằng
mỗi khi có đời sống, đều có đổi thay và
không có hai cá nhân nào hoàn toàn giống
nhau. Trong sự biến đổi, còn có sự tranh đấu
để sinh tồn và tốc độ gia tăng theo cấp số
nhân. Tác phẩm “Nguồn Gốc” còn cho thấy
nguyên tắc “chọn lựa tự nhiên” đã hoạt động
để kiểm soát độ gia tăng của số lượng sinh
vật. Một số cá nhân trong một chủng loại sẽ
có sức mạnh hơn, chạy nhanh hơn, thông minh
hơn, ít bị bệnh tật hơn, có khả năng chịu
đựng các khắc nghiệt về thời tiết. Các cá
nhân này sẽ sống còn và các sinh vật yếu
đuối hơn sẽ suy tàn. Loại thỏ trắng trường
tồn trên miền bắc cực còn loại thỏ nâu sẽ bị
loại chồn, sói ăn thịt. Các con hươu cao cổ
nhờ cổ dài, sẽ sống còn do ăn các lá trên
ngọn cây trong khi loại hươu cổ ngắn bị chết
đói. Như vậy các hoàn cảnh thay đổi đã chi
phối sự sống còn của các sinh vật có khả
năng nhất. Charles Darwin cũng đề cập tới sự
chọn lựa truyền giống (sexual selection) với
các con đực thích nghi được nhiều nhất trong
môi trường sống, sẽ để lại nhiều hậu duệ
nhất.
Khí hậu cũng là một yếu tố quan trọng. Các
sinh vật chịu đựng nổi sức nóng và độ lạnh,
lại có khả năng kiếm ăn, sẽ trường tồn. Tất
cả các hình thức phức tạp của cuộc sống phải
theo đúng với các định luật tự nhiên và tác
phẩm “Nguồn Gốc” đã trình bày cuộc tiến hóa
không ngừng.
5/ Tranh cãi về
Thuyết Tiến Hóa.
![](images/darwin05.jpg)
Trái ngược với điều mà mọi người hằng tin
tưởng, Charles Darwin không phải là nhân vật
đầu tiên tìm ra lý thuyết Tiến Hóa. Các nhà
khoa học xuất sắc như Buffon, Goethe, Eramus
Darwin (ông nội của Charles Darwin), Lamarck
và Herbert Spencer đã ủng hộ lý thuyết này.
Nhưng công trình đóng góp của Charles Darwin
là ông đã thu lượm đầy đủ các dữ kiện để
chứng minh sự tiến hóa và ông cũng đi xa hơn
trong lý thuyết chọn lựa tự nhiên do cách
cắt nghĩa phương pháp tiến hóa.
Tác phẩm “Nguồn Gốc các Chủng Loại” đã xuất
hiện như một tia chớp đánh vào vựa rơm. Nếu
lý thuyết mới và mang tính cách mạng này có
giá trị, thì câu chuyện trong Thánh Kinh về
Chúa tạo ra con người sẽ không còn được chấp
nhận. Giáo Hội Thiên Chúa vì thế đã coi luận
đề của Charles Darwin là nguy hiểm cho tôn
giáo, nên đã gây ra một trận bão tố phản
đối. Dù cho Charles Darwin đã cẩn thận tránh
né việc áp dụng lý thuyết của ông vào nhân
loại nhưng lời buộc tội đã coi tác giả cho
rằng con người bắt nguồn từ con khỉ. Nhiều
lời diễu cợt đã được dùng làm cách bác bỏ lý
thuyết của Charles Darwin. Tạp chí Quarterly
Review đã gọi Darwin là một con người nông
nổi, làm ô danh Khoa Học. Ông Darwin còn bị
tố cáo là đã thu thập nhiều dự kiện để cụ
thể hóa một “nguyên tắc sai”. Tại ngôi
trường cũ, Đại Học Trinity ở Cambridge, ông
William Whewell đã không cho phép một ấn bản
nào của tác phẩm “Nguồn Gốc” được đặt trong
thư viện của nhà trường.
Trong số các nhân vật bảo thủ chống đối, có
ông Robert Owen, nhà xã hội và kỹ nghệ tại
nước Anh và ông Louis Agassiz, nhà động vật
học và địa chất học người Hoa Kỳ, cả hai đều
cho rằng lý thuyết của Charles Darwin là một
tà thuyết khoa học, chẳng bao lâu sẽ bị quên
lãng. Nhà thiên văn lừng danh người Anh Sir
John Herschel đã mô tả lý thuyết này là “một
định luật bừa bãi”. Vị giáo sư địa chất cũ
của Darwin là ông Sedgwick, đã coi chủ
thuyết Darwin là sai nhầm nặng nề.
Tuy nhiên Charles Darwin đã không thiếu
người bênh vực đầy can đảm. Đứng hàng đầu
trong số nhân vật này là Sir Charles Lyell,
nhà địa chất, Thomas Huxley, nhà sinh học,
Sir Joseph Hooker,
nhà thực vật học và Asa Gray, nhà thực vật
học danh tiếng của Hoa Kỳ. Trong số các vị
uy tín này, Darwin nhờ tới ông Huxley nhiều
nhất. Darwin đã không xuất hiện trước công
chúng để bênh vực lý thuyết của mình. Phần
lớn sự bảo vệ là do khả năng của ông Huxley
và đấu trường là buổi họp của Hội Anh Quốc
(the British Association) tại thành phố
Oxford vào năm 1860 với chủ đề là Chủ Thuyết
Darwin (Darwinism). Đứng đầu phe đả phá là
Tổng Giám Mục Wilberforce của miền Oxford.
Trong bài diễn văn kết luận, vị Tổng Giám
Mục này tin rằng có thể đè bẹp lý thuyết
Darwin nên đã hướng về ông Huxley và hỏi một
cách châm biếm: “Tôi hỏi Giáo Sư Huxley,
liệu có phải phía ông nội hay bà nội của
ngài có nguồn gốc từ loài khỉ phải không?”.
Ông Huxley quay sang một người bạn và nói
nhỏ: “Chúa đã giao ông ta vào tay tôi rồi!”.
Ông Huxley bèn đứng lên và phát biểu: “Một
người không có lý do gì phải xấu hổ khi có
một con khỉ là ông nội. Nếu tôi xấu hổ chỉ
vì có một ông tổ trí thức gặp một câu hỏi
không biết rõ, làm mờ tối câu hỏi này vì lời
hùng biện không chủ đích, làm lãng trí các
người nghe bằng các lời lẽ lạc đề lại khéo
léo dùng tới thành kiến tôn giáo”.
Trên đây chỉ là một vụ trong các đụng độ
diễn ra trong nhiều thập niên giữa Nhà Thờ
và Khoa Học về chủ thuyết Darwin. Qua tác
phẩm “Nguồn Gốc”, Charles Darwin đã đề cập
một cách nhẹ nhàng về nguồn gốc của con
người nhưng về sau, qua cuốn sách “Dòng dõi
của Con Người” (The Descent of Man), một
khối lượng lớn dữ kiện của Darwin đã chứng
minh rằng con người cũng là sản phẩm của
định luật Tiến Hóa, từ các hình thức thấp
kém hơn.
Định luật Tiến Hóa của Charles Darwin dần
dần được coi là chính xác, đã ảnh hưởng tới
rất nhiều phạm vi học thuật chính. Chủ
thuyết Tiến Hóa Hữu Cơ (the organic
evolution) đã được chấp nhận bởi các nhà
sinh học, địa chất, hóa học, vật lý, nhân
chủng, tâm lý, giáo dục, triết học, xã hội
học và ngay cả các nhà sử học, khoa học
chính trị, ngữ văn (philologists). Charles
Darwin đã làm cách mạng không chỉ đối với bộ
môn Sinh Học, mà còn ảnh hưởng sâu rộng tới
các phạm vi Khoa Học khác, từ Thiên Văn tới
Lịch Sử, từ môn Cổ Sinh Vật tới Tâm Lý Học,
từ ngành Phôi Thai Học tới Tôn Giáo. Vì vậy
ông Charles Ellwood đã tuyên bố rằng Charles
Darwin xứng đáng với hàng danh dự cao nhất
dành cho Nhà Tư Tưởng đã mang lại các kết
quả sâu rộng nhất trong Thế Kỷ 19.
Qua thế kỷ 20, Chủ Thuyết Darwin với ý tưởng
chọn lựa tự nhiên, đã bị chế độ Đức Quốc Xã
dùng vào việc tuyên truyền và tiêu diệt một
số dân tộc thiểu số. Các cuộc chiến tranh
giữa các quốc gia đã được biện hộ một cách
sai lạc rằng đây là một phương tiện để diệt
trừ các kẻ yếu, và về sau khi tranh giành
quyền lực, các người Cộng Sản Mác Xít cũng
áp dụng lý thuyết tranh đấu để sống còn vào
chủ trương “đấu tranh giai cấp” của họ.
![](images/darwin_tomb.jpg)
Charles Darwin qua đời vào ngày 19/4/1882 vì
bệnh tim. Tin buồn này được nhiều tờ báo
đăng tải bởi vì vào thời kỳ này, lý thuyết
của ông đã được nhiều người công nhận. Nhật
báo London Standard đã viết rằng: “Các tín
đồ Thiên Chúa Giáo chân chính có thể chấp
nhận các sự kiện của Luật Tiến Hóa giống như
họ đã làm đối với ngành Thiên Văn và ngành
Địa Chất, không vì các thành kiến do các
niềm tin lâu đời và được ưa thích”.
Charles Darwin mong muốn được an táng trong
ngôi làng Downe, hạt Kent, nhưng giới Khoa
Học của nước Anh đã đặt di cốt của ông tại
Tu Viện Westminster danh tiếng, bên cạnh
ngôi mộ của một nhà khoa học khác lừng danh
trên Thế Giới, là Sir
6/ Kỷ niệm 200 năm ngày
sinh nhật
![](images/darwin04.jpg)
![](images/darwincoin01.jpg) ![](images/darwincoin02.jpg)
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Phạm Văn Tuấn
|