Holmes Welch

Vietsciences- Dũ Lan Lê Anh Dũng     07/11/2006
 

 Những bài cùng tác giả

 Holmes Welch (1921-1981): cuộc hội thoại cách nhau 500 năm giữa Đức Lão Tử  và các Thánh Tông đồ

 

Holmes Welch (ảnh: Viện đại học Harvard)

Holmes Welch (1921-1981) là một trong những người nỗ lực nghiên cứu đạo Lão ở Mỹ. Đậu cử nhân (1942) và thạc sĩ (1956), ông làm giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Á (the Research Center of the East Asia) và là phó chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới (the Research Center of World Religions) tại Viện đại học Harvard.

Năm 1956 Papers on China (Các bài viết về Trung Quốc) của Viện đại học Harvard đã in khảo luận đầu tay của Welch nhan đề Syncretism in Early Daoism (Sự dung hợp trong buổi đầu của đạo Lão). Năm 1957 Journal of Oriental Studies (Tập san Nghiên cứu phương Đông) của Viện đại học Hương Cảng đã in khảo luận của Welch nhan đề Chinese Daoism and the Celestial Master Zhang (Đạo Lão Trung Quốc và Trương Thiên sư)[1].

Sau đó Welch sang Đài Loan và Hương Cảng nhiều lần để nghiên cứu điền dã về đạo Phật, đạo Lão và nghi lễ đạo Lão. Năm 1957 ông xuất bản Split of Dao: Laozi and Daoism (Sự phân chia của Đạo: Lão Tử và đạo Lão).[2] Sách gồm bốn phần: vấn đề Lão Tử; Đạo đức kinh; phong trào Đạo giáo; Đạo Lão ngày nay. Welch đã giải thích một ít về Đạo đức kinh cũng như giới thiệu khái quát về lịch sử đạo Lão. Bách khoa thư Anh bộ mới (The new British Encyclopedia) thừa nhận rằng quyển sách đó là những giải thích tỉ mỉ đáng đọc nhất về Đạo đức kinh, và lần đầu tiên mới có người miêu tả phong trào Đạo giáo rõ ràng đến thế.

Welch tích cực tham gia tổ chức ba cuộc hội nghị quốc tế đầu tiên về nghiên cứu đạo Lão, và khuyến khích công cuộc nghiên cứu đạo Lão khắp thế giới. Hội nghị thứ nhất tổ chức tại thành phố Bellagio, vùng Lombardy nước Ý. Sau hội nghị này Welch cho in trên History of Religions (Lịch sử Tôn giáo) của Viện đại học Chicago một khảo sát về hội nghị này với nhan đề Bellagio Conference on Daoist Studies (Hội nghị ở Bellagio về nghiên cứu đạo Lão). Sau hội nghị thứ hai, Welch hợp tác với Anna Seidel xuất bản Facets of Daoism – A Collection of Essays on Chinese Religion (Các khía cạnh của đạo Lão – Hiệp tuyển các khảo luận về tôn giáo Trung Quốc). Sách tập hợp chín bài viết của các học giả Pháp, Mỹ, Nhật và đã thúc đẩy xa hơn nữa việc nghiên cứu đạo Lão trên phạm vi quốc tế. Sau hội nghị thứ ba, Welch trở về Mỹ và có lẽ vì tuổi già, hôn nhân và gia đình hay là do công việc (?) ông đã tự tử. Học giới ngày nay luôn đánh giá cao và kính trọng những đóng góp của Welch vào việc phát triển nghiên cứu đạo Lão tại Mỹ cũng như trên thế giới.[3]

Nghiên cứu Lão Tử Đạo đức kinh, Welch nhận xét rằng “Ngoại trừ Kinh Thánh chẳng có một quyển sách nào khác được dịch sang tiếng Anh nhiều như Đạo đức kinh của Lão Tử. – No other book except the Bible has been translated into English as often as Lao Tzu’s.”[4] Sau khi cung cấp một danh sách khá dài các bản dịch, Welch hỏi: Tại sao có nhiều bản dịch như vậy? Ngoài lý do vì bản kinh ngắn gọn, Welch suy luận: “Một lý do có ý nghĩa hơn để giải thích vì sao phương Tây có nhiều bản dịch đến thế có thể là giữa Đạo đức kinh và Kinh Thánh Tân ước chứa những điểm tương đồng. – A more significant reason for so many Western versions lies perhaps in the parallels between the Tao Te Ching and the New Testament.”[5]

Welch đã dẫn ra mười lăm trường hợp minh chứng cho ý kiến của ông. Phỏng theo Welch, sau đây là mười điểm đối chiếu giữa hai pho kinh.[6]

1. Báo oán dĩ đức. (Lấy đức báo oán.) ĐĐK chương 63.

“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.”  Luc. 6:27-28.[7]

2. Phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. (Vì thánh nhân không tranh giành, cho nên thiên hạ không ai tranh giành với mình.) ĐĐK 22.

“… nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm.” Mat. 5:39-41.

3. Cường lương giả bất đắc kỳ tử. (Kẻ dùng bạo lực sẽ chết bất đắc kỳ tử.) ĐĐK 42.

“Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm.” Mat. 26:52.

4. Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ? (Để bảo tồn nguyên khí, ngươi có thể trở nên như trẻ mới sinh chăng?) ĐĐK 10.

“Thầy bảo thật anh em: Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” Mat. 18:3.

5. Thị dĩ thánh nhân, hậu kỳ thân nhi thân tiên. (Vì vậy thánh nhân để thân mình ra sau mà thân lại đứng trước.) ĐĐK 7.

“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” Mat. 23: 12.

6. Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ. (Vàng ngọc đầy nhà, chẳng thể giữ được.) ĐĐK 9.

“Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi.” Mat. 6:19.

7. Danh dữ thân thục thân, thân dữ hóa thục đa? (Danh với thân cái nào quý hơn? Thân với của, cái nào trọng hơn?) ĐĐK 44.

“Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” Mat. 16:26.

8. Bất viết: … hữu tội dĩ miễn da? (Há người xưa chẳng nói rằng … có tội thời được tha thứ sao?) ĐĐK 62.

“Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao?” Mat. 18:12.

9. Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất. (Lưới Trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt.) ĐĐK 73.

“Thế mà, không một con [chim sẻ] nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em.” Mat. 10:29.

10. Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. (Lời ta rất dễ biết, rất dễ làm.) ĐĐK 70.

“Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” Mat. 11:30.

Sự tương đồng lạ lùng giữa hai quyển kinh chép cách nhau 500 năm như vừa dẫn trên quả nhiên rất thú vị. Nó gợi cho thấy rằng tôn giáo Đông Tây kim cổ dẫu có phần khác nhau nhưng tiềm tàng sâu thẳm bên trong vẫn có chung một chân lý. Khoa Tôn giáo đối chiếu (Comparative Religions) vì thế có công dụng giúp tín đồ các tôn giáo hiểu biết nhau hơn và xích gần lại với nhau hơn. Giáo dẫu có nhiều, có mới có cũ, nhưng Đạo trước sau duy chỉ có một mà thôi. Lãnh hội lẽ một đó sẽ góp phần xóa bỏ kỳ thị tôn giáo, tín ngưỡng và đồng thời cũng góp phần xây đắp hòa bình cho nhân loại.

CHÚ THÍCH:

[1] Trương Thiên sư tức là Trương Đạo Lăng (thế kỳ II, đời Hán).

[2] Bản sách này được Beacon Press (Boston, 1965, 1967) in lại với nhan đề Taoism: the Parting of the Way và phụ chú chữ Hán là 道之分歧 Đạo chi phân kỳ.

[3] Tiểu sử trên đây viết theo 陳耀庭 Trần Diệu Đình (http://www.eng.taoism.org.hk).

[4] Taoism: the Parting of the Way. Boston: Beacon Press, 1967, p. 4.

[5] Taoism: the Parting of the Way, p. 5.

[6] Người viết không hoàn toàn sử dụng cách đối chiếu của Welch. Rải rác nhiều chỗ người viết đã chọn lại câu kinh trích dẫn khác hơn Welch.

[7] Tất cả các câu Kinh Thánh dẫn nơi đây đều căn cứ theo bản dịch của Nhóm Phiên dịch các giờ Kinh Phụng vụ.

           © http://vietsciences.free.fr  http://vietsciences.org  Dũ Lan Lê Anh Dũng