Nỗi đam mê làm người của thế kỷ 20
[1]
Viết về con người, cuộc đời Sartre, chán ngắt.
Thiên hạ đã viết quá nhiều, ít có khả năng tiết
lộ điều gì mới, nẩy lửa, hấp dẫn 'thị trường'.
Năm 1985, nhà xuất bản Gallimard đăng quyển
Sartre của Annie Cohen-Solal, khổ
lớn, hơn 700 trang. Trong đó, những thông tin
mới lạ nhất thuộc loại : khi viết Les Mots,
Ngôn từ, chàng trở về cố hương vài
lần !
Viết về triết lý của Sartre càng chán hơn. Lúc
quyển L'Être et le Néant, Thực-thể và
Hư-vô ra đời năm 1943, chẳng ai hiểu nó,
viết về nó chắc lý thú. Nhưng, năm 1947, Francis
Jeanson đã viết quyển Sartre par lui-même
(Sartre, do chính Sartre) tái bản
dưới tựa
Le problème moral et la pensée de Sartre[2]
(Vấn đề luân lý và tư tưởng của Sartre),
giới thiệu chính xác, mạch lạc, dễ hiểu triết lý
của Sartre và những vấn đề luân lý nó đặt ra.
Trong đề tựa cho quyển sách này, Sartre công
nhận : Jeanson đã trình bầy chung thủy triết lý
của mình và, trên cơ sở đó, nêu những đề tài suy
ngẫm Sartre đang nêu cho chính mình. Một thái độ
hiếm trong làng triết gia. Các tổ sư triết
thường không bao giờ công bố 3 điều :
- Có người đã hiểu thấu tư tưởng mình, tức là
đã ngang hàng với mình trong lĩnh vực ấy.
Thái độ của Sartre đối với Jeanson. Ðặc biệt
hơn, đối với Simone de Beauvoir, người được
chàng ký tặng toàn bộ sách triết của chàng, đọc,
tranh luận toàn bộ bản thảo, được chàng ủy quyền
cắt bỏ bất cứ câu nào nàng thấy thừa trước khi
nàng mang trao cho nhà xuất bản. Chàng thổ lộ,
nàng không chỉ ở cùng trình độ kiến thức với
chàng mà :
[...] nàng là người duy nhất hiểu tôi ở mức tôi
hiểu chính mình, hiểu tôi đang muốn làm gì. Do
đó nàng là người đối thoại toàn hảo, người đối
thoại mà [bình thường] ta chưa bao giờ có được.
Ðó là một may mắn có một không hai. [...] Ðiều
có một không hai trong quan hệ giữa Simone de
Beauvoir với tôi, chính là quan hệ bình đẳng ấy[3].
- Công nhận mình bế tắc trước chất vấn của người
khác hay của chính mình. Thái độ của Descartes
đối với công chúa Élisabeth de Bohême[4].
Thái độ của Aristote đối với chính mình khi bàn
về giá trị trao đổi của hàng hoá[5].
- Người ủng hộ, đề cao tư tưởng của mình đã…
hiểu sai tư tưởng đó. Thái độ của Marx và Engels
đối với đồng chí của họ. Có vô số thí dụ lừng
danh.
Không phải triết gia nào cũng đủ bản lĩnh để ứng
xử như thế đối với bề đệ tử !
Viết về văn chương của Sartre thì... hỡi ơi ! Có
hàng tấn sách đăng khắp thế giới. Bản thân
Sartre nhận xét :
Nhưng tôi có thể nói, trong tất cả những bài
viết về tôi mà tôi đã đọc […], tôi chẳng học
được gì[6].
Vậy, viết bài này để làm gì ? Ðể làm bạn, để trả
nợ quỷ thần.
Làm bạn. Ðọc một bài trên Hợp Lưu
có nói về Sartre của bạn, tôi góp ý riêng về hai
từ tôi thấy sai và giải thích tại sao. Không ngờ
bè bạn lại muốn đăng lá thư ấy. Ðã đăng, phải
dịch những đoạn tiếng Pháp. Trong chuyện này,
tôi lại góp ý, giải thích. Bè bạn lại muốn đăng
tuốt. Kết quả, tùm lum. Nếu muốn đăng thành bài,
phải viết lại. Ðành viết lại. Ðã viết lại, nên
viết có gốc, có ngọn, tránh lạm dụng thời giờ
của độc giả.
Trả nợ quỷ thần. Sartre là một tác giả thiết
thân với tôi. Bè bạn chế diễu : đồ đệ của
Sartre. Ðúng thế. Phải tới cuối đời tôi mới có
khả năng phê phán chàng trong quyển Penser
librement. Người Việt nói và viết rất
nhiều về Sartre nhưng ít dịch tác phẩm của
Sartre, đặc biệt tác phẩm triết. Tôi viết bài
này để chia sẻ với người Việt cuộc gặp gỡ giữa
một thanh niên Ziao Chỉ với một triết gia, một
nhà văn Pháp. Chia sẻ cuộc gặp gỡ thôi vì, đương
nhiên, không thể giới thiệu hết, dù chỉ lướt
qua, cuộc đời phong phú và tác phẩm đồ sộ của
Sartre trong một bài báo.
Một con người quái đản
Con người Sartre đặc biệt nhất ở nhu cầu, ý chí
sống trong suốt (transparent) với chính
mình, với người khác, với đời. Chàng muốn vậy và
đã sống như vậy. Ðiều này phù hợp với triết lý
của L'Être et le Néant, Thực-thể và Hư-vô :
Ý thức (Conscience) là một quá trình phủ
định trong suốt, không gợn tí vật thể nào. Vì
thế, viết tiểu sử Sartre rất chán : chẳng còn
chút 'bí mật' nào để bật mí. Chính chàng đã
thuật lại, phân tích tuổi thơ của mình trong
Les Mots, Ngôn từ. Cuối đời, trong
Situation X[7],
Thế X, qua 3 cuộc phỏng vấn của
Michel Contat và Simone de Beauvoir, chàng lại
nhận định về mình, đời mình, tư tưởng và tác
phẩm của mình. Từ thuở họ quen nhau cho tới ngày
chàng chết, Simone de Beauvoir, trong một loạt
hồi ký nổi tiếng đã thuật lại rất chi tiết cuộc
sống, quan hệ, suy nghĩ hàng ngày của họ. Năm
1990, tập san Les Temps Modernes (Thời
Hiện đại) đăng trong 2 số đồ sộ, tổng
cộng gần 1500 trang, bài vở của nhiều người đã
từng quen biết, gần gũi với Sartre, dưới tựa
Témoins de Sartre (Nhân chứng về Sartre).
Sartre lại cho phép đăng tất cả bản thảo bỏ dở,
thư từ chàng viết cho bất cứ ai, đặc biệt cho
Simone de Beauvoir, tất cả những gì chàng đã
từng viết. Còn chuyện gì mới để nói về chàng
nữa ?
Không những Sartre muốn sống trong suốt với
chính mình, chàng còn muốn sống trong suốt
với người khác, khi người ấy... chịu
đựng nổi. Người duy nhất chịu đựng nổi là Simone
de Beauvoir. Vì họ cùng nhân sinh quan và nhân
sinh quan ấy, cộng với bản lĩnh, tài năng của
mỗi người, khiến họ có khả năng sống bình
đẳng, trong suốt với nhau : theo nhân sinh
quan ấy, đam mê chiếm hữu hay đam mê
thống trị người khác là những đam mê hão,
không thể thực hiện được, chỉ dẫn tới những nếp
sống không trung thực (inauthentique),
với những thái độ không trung thực như ghen
tuông, v.v. Sartre đã từng yêu nhiều bà. Người
biết rõ hơn ai hết là... Simone de Beauvoir.
Ngược lại, Simone de Beauvoir cũng đã yêu mấy
người đàn ông khác và người biết rõ nhất, chính
là Sartre. Họ chưa từng sống chung dưới một mái
nhà, thường ở hai khách sạn khác nhau và, cuối
đời, ở hai căn hộ khác nhau. Nhưng ngày nào họ
cũng gặp nhau tay đôi, nói cho nhau biết
mọi chuyện về đời sống hàng ngày, những suy nghĩ
của họ. Khi xa nhau, ngày nào họ cũng viết thư
cho nhau. Kho thư ấy đã đăng một phần. Ðọc
chúng, ắt sững sờ : họ sống trong suốt với nhau
thật, ngay cả trong những chi tiết thầm kín của
những mối tình riêng của từng người. Sống kiểu
ấy chẳng dễ tí nào, đã trở thành đề tài... văn
học. Và gây vài bi hài kịch trong làng văn. Bi
kịch, có mối tình giữa Simone de Beauvoir với
Algreen, một nhà văn Mỹ đoạt giải Pulitzer. Ðó
là mối tình tha thiết nhất của nàng sau... mối
tình với Sartre. Trong Les Mandarins,
Những quan thầy, có một nhân vật,
Algreen nhận ngay ra là mình. Trong nhiều năm,
mỗi năm nàng qua Mỹ sống vài tuần, vài tháng với
Algreen. Algreen cũng qua Pháp sống với nàng, đi
chơi với... Sartre. Cuối cùng Algreen không chịu
nổi quan hệ 'tay ba' đó, hai người bỏ nhau. Cuối
đời, Algreen nghèo túng, căm giận Beauvoir, đem
18 lá thư nàng đã gửi cho mình bán lấy một số
tiền khá lớn. Nhưng, 24 tiếng sau, chàng chuộc
lại và... giữ tới chết. Một trang tình sử. Hài
kịch : trong cơn lốc Tháng 5 năm 1968 tại Pháp,
một chục cặp trí thức nổi tiếng cũng thử sống
trong suốt với nhau. Kết quả : một chục cuộc ly
dị. Sartre và Beauvoir là những triết gia hiếm
hoi đã thực sự sống tới cùng triết lý của họ.
Ðiều đó đòi hỏi một triết lý đặc biệt, khả thi,
và sự hiện diện của 2 con người, một nữ một nam,
tương đắc, bình đẳng với nhau về mọi mặt. Ðó là
trường hợp hi hữu của Sartre và Beauvoir. Nó
khẳng định : con người có thể yêu nhau mà vẫn
quý mến tự do của nhau.
Sartre cũng muốn sống trong suốt với đời.
Thà mất bạn còn hơn duy trì một quan hệ bè bạn
nhập nhằng. Thí dụ điển hình nhất là cuộc tranh
luận với Albert Camus. Bài
Réponse à Albert Camus[8]
(Trả lời Albert Camus)
thể hiện tiêu biểu tình bạn của Sartre trong văn
chương : hiểu và đánh giá một cách tổng hợp con
người, hành động, tư tưởng, văn chương. Có lẽ ít
khi Camus được đọc một bài ca ngợi mình hay, sâu
sắc như trong mấy trang 111 và sau đó :
Ðối với chúng tôi ông đã từng là - và nay mai
vẫn có thể lại là - sự kết hợp tuyệt vời của một
con người, một hành động, một tác phẩm[9].
Yêu nhau lắm, cắn nhau đau. Trong bài đó, Sartre
giải thích vì sao những suy luận dẫn Camus đến
một đỉnh cao của văn chương Pháp cũng là những
suy luận đưa Camus vào ngõ cụt, biến chàng thành
nhân vật long trọng, hình thức, ngay trong văn
chương. Có lẽ Camus cũng chưa từng 'ăn đòn' nặng
như thế bao giờ.
Sau cuộc tranh luận này, có hai tiểu tiết đáng
ghi nhận để hiểu phong cách tranh luận giữa các
con người cỡ ấy. Trong 2 số Les Temps
Modernes nói trên, một nhà văn tường
thuật lại nhận xét của Camus về Sartre sau cuộc
tranh luận đó. Tác giả, người ủng hộ Camus,
chống Sartre, gặp Camus trong một quán
café ở Paris,
lôi chuyện ấy ra bàn. Camus nói : con người này
[Sartre] có một điều gì ma quái (diabolique)
nhưng không bao giờ hạ lưu (bassesse). Khi Camus
chết, Sartre viết một bài rất hay, chân tình[10].
Ðiều nổi bật thứ hai ở Sartre : chàng mê hiểu.
Hiểu chính mình, hiểu người khác, hiểu cả loài
người. Khi chàng tìm hiểu vấn đề gì, chàng đào
tận gốc lần tận ngọn.
Hiểu chính mình.
Trong Les Mots, Ngôn từ, chàng đã
vận dụng triết lý của L'Être et le Néant
để hiểu tuổi thơ của mình, xem nó đã ảnh hưởng
cuộc đời, tư duy, tác phẩm của mình ra sao,
những gì còn tồn tại trong mình, những gì cuộc
đời, nghiệm sinh của mình đã khiến mình quét đi.
Tác phẩm kết thúc với câu văn nổi tiếng nói về
chính mình :
một con người trọn vẹn, hình thành bằng cả nhân
loại, ngang
giá với mọi người và bất cứ ai cũng ngang giá
với mình[11].
Nhiều anh lý luận văn học PhuLăngXa ghét, phản
đối câu này. Nhiều anh, đã từng chửi Sartre thậm
tệ, không chấp nhận nổi chàng Nobel
PhuLangXa lại chỉ ngang giá với bất cứ ai trên
đời. Họ không hiểu nổi chính vì Sartre đam mê
làm người như thế mà chàng đã trở thành nhà văn
lớn của thế kỷ 20. Y hệt như một số phản ứng với
câu : Trước một đứa bé đang chết, Buồn nôn
chẳng đáng kilo nào.
Hiểu người khác (đã chết),
có quá nhiều thí dụ, từ Descartes tới
Baudelaire, Nizan. Cuối quyển L'Être et le
Néant, Sartre viết : có thể dùng bản thể
luận này làm nền tảng cho một phân tâm học hiện
sinh (psychanalyse existentielle), cho vài thí
dụ, đặc biệt bàn về sự quyến rũ của những cái
lỗ (trou) đối với con người ngay từ
thời ấu trĩ, lúc chưa có nhu cầu tình dục, liên
hệ với khái niệm Hư vô. Chàng đã thực
hiện điều đó nhiều lần, với nhiều tác giả. Thí
dụ tiêu biểu nhất : Flaubert. Chàng đã đọc lại
toàn bộ tác phẩm của Flaubert, kể cả 18 pho thư
từ riêng của Flaubert, viết 3 quyển sách đồ sộ,
L'Idiot de la famille (Thằng Ngốc của gia
đình), để chứng minh : con người có thể
hiểu con người. Quyển cuối cùng, dựa vào thân
phận làm người và tư duy của Flaubert để giải
thích văn phong của Flaubert, chàng bỏ dở, vì mù
luôn con mắt còn lại.
Hiểu người khác (đang sống),
có chuyện 'tiếu lâm' sau. Jean Gênet là một tù
phạm vào tù ra khám liên miên vì đủ thứ tội, ăn
cắp, nghiện
ngập, đồng tính luyến ái, v.v. Ðồng thời là một
đại văn hào... vô danh ! Sách của chàng bị cấm
xuất bản, cấm bán tại Pháp. Toàn chuyện đầu trộm
đuôi cướp, xì ke ma túy, nhục tình 'bệnh hoạn',
thể hiện bằng một văn phong cực kỳ trong sáng,
tinh khiết ! Sách đó xuất bản tại Thụy Sĩ, mỗi
lần vài trăm bản là cùng. Thế mà đám nhà văn lớn
của Pháp đều biết tới và mê. Jean Cocteau và
Sartre can thiệp để nhà nước Pháp thả Jean
Gênet, lúc đó đang ở tù, vì đó là nhà văn lớn.
Không nhớ ai lại đề nghị Gallimard xuất bản
Jean Gênet toàn tập trong bộ sách trứ
danh La Pléiade. Bộ sách này đăng
toàn tập và chỉ đăng đại văn hào khắp thế giới
đã chết từ lâu, như Shakespeare hay Molière,
không đăng tác giả còn sống (ngoài Gide và
Malraux), nói chi tới một tác giả chẳng mấy ai
biết là ai ! Thế mà Gallimard nhận đăng, nhờ
Sartre viết bài đề tựa cho bộ sách. Sartre viết
bài đề tựa dài... 700 trang. Quyển I của
Jean Gênet toàn tập chỉ có bài đề tựa ấy
thôi, không có tác phẩm của Jean Gênet. Chuyện
bên lề lý thú. Sartre gửi bản thảo cho Jean
Gênet. Một hôm, chàng đang
ngồi làm việc
trong café
Les trois mousquetaires, Jean Gênet xuất
hiện, đập rầm bản thảo ấy xuống bàn, nói :
Mày với thằng
Cocteau định giết tao, đáng lẽ tao đã vứt vào lò
sưởi.
Nếu chàng làm thế, và Gênet rất có thể làm thế,
chúng ta sẽ chẳng bao giờ được đọc đề tựa quái
dị này. Sartre luôn luôn viết tay, không có bản
sao. Ngày nay, 'bài' đề tựa ấy, Saint
Gênet, comédien et martyr (Thánh Gênet, kịch sĩ
tử vì đạo), hầu như gắn với tác phẩm của
Gênet. Ðồng ý với nó hay không, ta khó lờ nó.
Ngoài ra, hiểu người đang sống, chỉ liếc qua
danh sách nhà văn trẻ Sartre đã giới thiệu cũng
đủ thấy.
Hiểu cả loài người.
Tiêu biểu nhất có tác phẩm triết cuối cùng của
Sartre, Critique de la raison dialectique
(Phê phán lý trí biện chứng). Trong tác
phẩm này, Sartre vừa dựa vào bản thể luận của
L'Être et le Néant, vừa muốn vượt nó,
đưa cả Lịch sử vào tầm nhìn và lý luận, trả lời
câu hỏi : con người có khả năng hiểu Lịch sử hay
không, bằng phương pháp suy luận nào, vì sao,
v.v. Ðây mới là cuộc đương đầu cơ bản, đích thực
giữa Sartre với Marx. Những tác phẩm khác về đề
tài này, như Sartre đã viết, chỉ là tranh luận
với học trò tồi của Marx và nhất là của Engels.
Trong bài đề tựa cho tác phẩm này, Sartre viết
những câu nổi tiếng sau :
Cuối cùng, tôi chỉ đặt
một
câu hỏi. Một câu hỏi thôi : ngày nay, chúng ta
có hay không khả năng thiết lập một nhân học[12]
có tính cấu trúc và lịch sử ? Nó sẽ có chỗ đứng
trong triết lý của Marx vì - như độc giả sẽ thấy
sau đây - tôi coi chủ nghĩa Marx như triết lý
không thể vượt qua được trong thời đại của chúng
ta và vì tôi coi ý thức hệ hiện sinh và phương
pháp suy luận "thông cảm[13]"
của nó như một xâm nhập vào chủ nghĩa Marx do
chính chủ nghĩa Marx gây ra và đồng thời chống
lại[14].
Sartre rất ghét từ existentialisme (chủ
nghĩa hiện sinh) do Gabriel Marcel tạo năm
1943[15].
Ngay năm 1945, trong một cuộc thảo luận do nhà
xuất bản Cerf tổ chức, chàng trả lời Gabriel
Marcel : triết lý của tôi là triết lý của sự
hiện sinh (une philosophie de l'existence) ;
tôi không biết chủ nghĩa hiện sinh là cái gì cả[16].
Người Việt không phân biệt được những khái niệm
existentialisme, existentialiste với khái
niệm existence vì dịch tuốt luốt bằng từ
'hiện sinh'. Dễ hiểu, đây chỉ là một đề tài
triết kinh điển của Tây Âu. Nôm na, nội dung nó
là : hiện thực (existence, những
gì có trong thế giới hiện thực) có trước hay
bản chất (essence) có trước ? Dịch thế nào
không quan trọng lắm, quan trọng là hiểu nội
dung : sự đối kháng giữa thế giới thực và khái
niệm. Theo Platon, bản chất có trước, là sự thực
tinh khiết vĩnh cửu của mọi sự vật, còn điều con
người ý thức chỉ là hình ảnh méo mó của sự vật
đích thực, hình thành vì sự ngu muội. Tất nhiên,
với triết gia thì khác ! Sartre tuyên bố cộc
lốc : L'existence précède l'essence, sự hiện
sinh có trước bản chất, trong buổi nói
chuyện với 'quần chúng' đăng lại dưới tựa
L'existentialisme est un humanisme (Chủ nghĩa
hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản),
1945. Rất nhiều độc giả, ngại đọc sách triết,
biết triết lý của chàng qua bài nói chuyện nẩy
lửa đó. Sartre lừng danh, trở thành đề tài tranh
luận văn học từ đó. Sau này, chàng ân hận đã cho
đăng bài ấy :
Rất nhanh, tôi đã nghĩ rằng cho đăng nó là một
sai lầm lớn[17].
Ðối với chàng, chủ nghĩa hiện sinh của
Kierkegaard, của Jasper và của chàng, khác nhau
về nội dung, đều chỉ đáng gọi là ý thức hệ.
Sartre phân biệt triết lý với ý thức
hệ như sau. Ở mỗi thời đại chỉ có một triết
lý sống (vivante). Tư tưởng đáng
gọi là triết lý là tư tưởng đã đi vào đời, biến
thành môi trường suy luận của con người, 'thành
văn hoá và, đôi khi, bản chất của cả một giai
cấp', có thể áp đảo cả tư duy của các giai cấp
bị thống trị (ý của Marx). Vì thế, triết lý của
một thời đại luôn luôn vượt xa tác phẩm của
triết gia đã khai sinh nó : những người khác dựa
vào nó để ý thức và hành động, làm chủ thế giới,
đương nhiên phải phát triển nó trong đủ thứ lĩnh
vực. Nhưng tìm hiểu tác phẩm gốc sẽ giúp ta soi
sáng những học phái phụ thuộc (doctrines). Thí
dụ tiêu biểu : triết lý của Descartes. Hiện
tượng ấy Sartre gọi là
quá trình nhập thế của triết,
le devenir monde de la philosophie[18].
Trong nghĩa đó, từ thế kỷ 17 tới thế kỷ 20,
Sartre cho rằng chỉ có ba thời điểm chứng kiến
sự kiện ấy, chàng nêu danh bằng những tên tuổi
nổi tiếng : thời điểm của Descartes và Locke,
thời điểm của Kant và Hegel và, cuối cùng, thời
điểm của Marx. Tất cả các tư tưởng khác đều chỉ
đáng coi như ý thức hệ (idéologie) bám
vào môi trường triết lý kia mà tồn tại để phát
triển hay chống nó. Riêng với triết lý của chính
mình, Sartre giải thích : nó ra đời vì những
người cộng sản thời ông đã biến triết lý của
Marx thành một thứ học thuyết rỗng tuếch, khô
cứng, tê liệt, không cho phép con người hiểu
cuộc sống và bản thân mình[19].
Một khía cạnh khá ý nghĩa ở Sartre : chàng hoàn
toàn không có ý niệm gì về tiền.
Tiền nhuận bút vừa tới, thoắt biến. Tiêu cho
mình một phần, chủ yếu cho ăn mặc và trả tiền
phòng. Còn lại, cho hết, cho đủ thứ người vì đủ
thứ lý do. Có lúc không còn tiền trả thuế lợi
tức, phải vay mẹ 12 triệu quan cũ để nộp thuế.
Cuối cùng, Gallimard giữ lại tiền trả thuế. Còn
lại, mỗi tháng 'trả lương' cho Sartre một phần.
Jean Cau, thư ký riêng của chàng, kể : hai bàn
tay Sartre thủng, đổ tiền vào tới đâu chảy đi
tới đó. Mỗi tháng, tới ngày Gallimard chuyển
tiền nhuận bút vào tài khoản của Sartre, Jean
Cau tiến hành một 'nghi lễ' lý thú : đưa cho
Sartre ký ngân phiếu cho một đống người, trong
đó, không biết do đâu, vì lý do gì, có tiền
thanh toán chi phí bệnh viện cho một chàng
clochard (vô gia cư, sống lê lết trên vỉa hè
Paris) ! Ký xong, Sartre : Hết sạch rồi, phải
không ? Jean Cau gật đầu. Sartre bèn chạy xuống
bếp, vay bà đầy tớ của mẹ 10000 quan cũ để sống.
Con người hiểu thấu biết bao chuyện rắc rối
trong đời, thú nhận : quan hệ của chàng với tiền
là một vấn đề chàng không giải thích nổi, luôn
luôn khó chịu, bứt rứt. Chàng không thấy mối
liên hệ nào giữa những đống tiền chàng nhận và
những tác phẩm của chàng vì, theo chàng, triết
lý, văn chương thuộc loại đồ vô dụng (inutile,
không có giá trị sử dụng). Chàng cũng cho rằng
nhà văn tư sản như chàng là kẻ ăn bám giai cấp
thống trị. Kể cho vui. Tuy vậy, Sartre không
hiểu nổi, ắt có vấn đề không nhỏ. Ðây là bế tắc
cơ bản của khái niệm giá trị sử dụng
trong học thuyết kinh tế của Marx, khiến nó bất
lực để tìm hiểu kinh tế đời nay.
Còn nhiều chuyện đáng nói về con người Sartre vì
chàng là người hiếm hoi sống triệt để, trong
suốt, tới cùng triết lý của mình. Nhưng đã quá
dài. Xin nêu một khiá cạnh cuối cùng : Sartre
cực ghét mọi hình thái quyền lực, chính
trị, kinh tế, xã hội, kiến thức, tư tưởng...
Chàng đã gặp nhiều người có quyền lực, danh vọng
trên khắp thế giới, không kết bạn với ai. Chàng
luôn luôn ứng xử bình đẳng với bất cứ ai, kể cả
những người đáng tuổi con, cháu. Trong đời,
Sartre 'có quyền lực' trong thời làm giáo sư
triết cho năm cuối trung học. Một ông 'thầy'
quái đản. Không 'dậy', chỉ nói chuyện, thảo luận
với học trò. Khi phải chấm bài, cho mọi người
điểm... như nhau ! Ra khỏi lớp, hay rủ học trò
đi... đánh boxe ! Thầy trò boxer
nhau túi bụi, còn ra thể thống quái gì ? Nhưng,
trong vài trường hợp, lại kết bạn lâu bền. Hai
người học trò cũ thuật lại[20] :
Thực ra, ông không dậy học, ông nói chuyện với
những người bạn trẻ và những điều ông nói có vẻ
đương nhiên, chắc chắn đến mức chúng tôi có cảm
tưởng mình đang khám phá Sự Thật.
Ðột nhiên, một ông thầy tạo ra một quan hệ giữa
người với người không giống quan hệ gia đình hay
bất cứ quan hệ quyền lực nào, một quan hệ gạt bỏ
những hàng rào thông thường.
Về già, chàng vẫn tiếp học sinh tới hỏi chàng về
vở kịch La Putain Respectueuse, Con đĩ
kính cẩn, để về viết bài vở. Phong cách
đối xử ấy với người đời, ai đã gặp chàng đều
công nhận. Trong thế kỷ 20, đây là con người
tiêu biểu nhất cho 2 giá trị cơ bản của nền văn
minh tư sản Pháp : tự do và bình đẳng.
Vì nó đã tái sinh và phát triển nội dung của hai
khái niệm ấy.
Một kiếp sống, tư duy, hành động và sáng tác
nghệ thuật phi thường
Trong đoạn tới, phải nói tới triết lý của
Sartre, phải sử dụng những khái niệm triết. Vậy,
xin nói trước, đối với tôi, 'khái niệm' nghĩa là
gì. Khái niệm là một từ ngữ có định nghĩa và có
ý nghĩa trong môi trường của một hệ suy luận[21].
Khái niệm khoa học (tự nhiên) khác khái niệm
triết hay văn học ở điểm cơ bản cuối cùng đó.
Trong khoa học, khi cộng đồng những người làm
khoa học đã chấp nhận một khái niệm thì nó chỉ
có 'một' định nghĩa thôi vì môi trường suy luận
của họ là một. 'một' vì thực tế một khái niệm
khoa học có thể có nhiều định nghĩa tuỳ độ chính
xác cần thiết để hiểu một sự kiện trong khuôn
khổ một nghiên cứu và thực nghiệm. Thí dụ : khái
niệm kilogramme. Nó biểu hiện một quan hệ
về lượng giữa hai hay nhiều vật thể. Trong đời
sống và hành động thường ngày, đó là quan hệ
giữa bất cứ vật thể nào với một khối kim loại
trưng tại Palais des Poids et des Mesures
ở vùng Paris, có thể cụ thể hoá dưới dạng một
cái cân và ký hiệu hoá dưới dang một cái kim ở
vị trí nào đó trên một bảng đo hay một con số.
Mở tầm nhìn ra toàn bộ quả đất, nó có một định
nghĩa khác, bao quát hơn, chính xác hơn. Mở tầm
nhìn ra cả vũ trụ, cũng vậy. Nhưng ba định nghĩa
ấy nhất quán với nhau, định nghĩa bao quát và
chính xác nhất bao phủ, giải thích giới hạn của
định nghĩa thấp hơn. Trong văn học, hoàn toàn
khác. Ðằng sau một từ ngữ, có thể có vô vàn khái
niệm với vô vàn định nghĩa khác nhau. Mỗi triết
gia định nghĩa lại khái niệm của triết gia khác.
Những khái niệm ấy chỉ có nghĩa trong môi trường
của một hệ tư duy. Tình nghĩa chẳng hạn,
là một khái niệm không có từ tương ứng trong
tiếng Pháp, không thể 'dịch' được. Vậy, trong
triết, khi ta dùng một khái niệm, nếu muốn viết
chính xác, phải điền theo 'của tác giả nào'. Nói
thế tưởng dễ, nhưng không dễ tí nào. Những bố
triết gia thường định nghĩa khái niệm của mình
bằng vài chục trang ! Thí dụ khái niệm
mauvaise foi (sự giả dối với chính mình)
của Sartre : cả một chương trong
L'Être et le Néant ! Viết đi viết lại
như thế, chết độc giả, nuốt thế quái nào được !
Vậy, trong đoạn sau, những khái niệm
triết tôi dùng hoặc là khái niệm của Sartre, có
ý nghĩa trong hệ suy luận của chàng hoặc là khái
niệm bình dân học vụ. Khi là khái niệm do
tôi bịa, tôi sẽ nói rõ.
Ðời người là một quá trình liên tục từ sinh tới
tử. Trong quá trình ấy, tư duy của con người lúc
tiến, lúc chựng lại, lúc lùi. Có lúc nhẩy vọt
lên phiá trước, có lúc nhẩy vụt về... khởi điểm.
Cắt một cuộc đời thành nhiều giai đoạn có vẻ giả
tạo, hình thức, nhất là đối với Sartre, người có
thói quen làm cùng lúc nhiều chuyện : viết
triết, viết văn, tranh luận, bút chiến, giới
thiệu nhà văn trẻ, dấn thân chính trị... Lại có
thói đột ngột bỏ chuyện này làm chuyện khác, rồi
trở lại hoàn thành chuyện bị bỏ rơi... 10 năm
sau. Tuy vậy, chính Sartre đã làm chuyện đó đối
với đời mình. Ta có thể dựa vào đó để tìm hiểu.
Cuộc đời ấy có ba giai đoạn :
- trước chiến tranh thế giới 2.
- từ chiến tranh thế giới 2 tới 1968, khi xã hội
Pháp bùng nổ.
- từ 1968 tới chết, năm 1980.
3 giai đoạn ấy khớp với vận động của lịch sử,
hai giai đoạn sau khởi đầu bằng một cuộc động
đất trong lịch sử Pháp. Chúng cho phép ta thấy
tư tưởng, văn chương của Sartre vận động trong
hoàn cảnh lịch sử.
Giai đoạn 1, tới 1945.
Sartre là một tác giả hiếm hoi vừa làm chủ tư
tưởng của mình vừa làm chủ ngòi bút hành văn của
mình, không bao giờ cho phép triết lý và
văn chương chia lìa nhau. Cho tới nay, chưa ai
phát hiện được mâu thuẫn nào giữa triết lý, văn
chương, hành động, cuộc sống của chàng. Phê phán
Sartre khó ở đó. Người ta trách chàng đã từng
lựa chọn sai, như 'lịch sử đã chứng minh'. Từ đó
kết luận : phương pháp suy luận của chàng sai.
Cứ cho là vậy. Nhưng phương pháp suy luận ấy sai
ở chỗ nào về mặt lôgích ? Tại sao phương pháp
suy luận sai ấy khiến chàng thường thường lựa
chọn đúng và sáng tác lắm tác phẩm văn chương
hay như vậy ? Chẳng mấy ai nói được điều gì đáng
kể, thường chỉ phán và đem... lịch sử
(sic) ra nện. Chẳng thuyết phục tí nào.
Cuối cùng, ý kiến thời thượng hiện nay : Sartre
là một nhà văn lớn, một triết gia tồi ; ca ngợi
văn chương của chàng và lờ triết lý của
chàng. Nhưng lờ thế quái nào được : vứt bỏ nội
dung triết lý, chẳng còn điều gì hiểu được !
Nhưng độc giả ngày nay đọc vẫn hiểu điều chàng
muốn nói, dĩ nhiên ở những mức độ khác nhau.
L’enfer, c’est les autres (Ðịa ngục, chính là
tha nhân) hiểu theo kiểu thông thường vẫn
hay. Và không mâu thuẫn với
l’Être-pour-Autrui (Thực-thể-do-Tha-nhân)
trong triết lý của L’Être et le Néant.
Sống với chàng (nàng), có lúc tôi có cảm
tưởng tôi chỉ còn là một cái bàn, cái ghế.
Có mấy người đã từng nói với tôi như thế. Họ
'vận dụng' triết lý của Sartre mà không biết. Do
đó Sartre vẫn incontournable (không thể vòng
tránh) đối với triết gia Pháp : không đụng
tới thì thôi (đó là thái độ chung, lờ),
đụng tới khó nhai nghiền lắm lắm. Ðúng là :
Nhưng không ai chiến thắng nổi một triết lý bằng
cách tuyên bố đơn thuần rằng nó sai. Phải hiểu
nó và
vượt
nó, trong nghĩa dựa vào nó mà tiến lên đúng theo
lôgíc nội tại của nó, vận dụng khả năng phê phán
của con người để gạt bỏ khía cạnh hình thức của
nó [nói toẹt là ngôn ngữ thời thượng cũng được,
PHĐ] nhưng vẫn giữ lại nội dung mới mà nó đã đạt
được[22].
Thuở còn thơ, Sartre mơ trở thành nhà văn lớn.
Vào École Normale Supérieure (Trường Cao Ðẳng
Sư Phạm), chàng mơ thêm trở thành
triết gia lớn. Trưởng thành trong thời đại cách
mạng, chàng đã mong giải quyết mâu thuẫn giữa
triết lý (dựa vào suy luận cá nhân) và hành động
(cùng người khác thay đổi thế giới), đem triết
lý vào đời thực. Do đó chàng phải đương
đầu với triết lý của Marx vì, trong thế kỷ 20,
nếu có một triết lý đã thực sự biến thành môi
trường cảm nhận và tư duy của đông đảo quần
chúng, đó là triết lý của Marx, mọi triết gia
đều phải đối diện với nó để khẳng định mình. Do
đó chàng tạo những khái niệm liberté en
situation (tự do trong bối cảnh), intellectuel
engagé (trí thức dấn thân), littérature engagée
(văn chương nhập cuộc), v. v...
Từ ấy, chàng đeo đuổi cả hai hoài bão, thường là
song song, nhưng cũng có lúc nhẩy từ lĩnh vực
này qua lĩnh vực kia, tư tưởng luôn luôn thống
nhất, văn chương nêu vấn đề cho triết lý, triết
lý làm nền tảng cho văn chương, rồi văn chương
hiện sinh hoá[23]
triết lý qua tác phẩm nghệ thuật và... giải
quyết những bế tắc triết học !
Tác phẩm đầu tiên thể hiện những khái niệm triết
đặc thù của Sartre là La Nausée (Buồn nôn).
Chàng nộp bản thảo cho Gallimard năm 1936 dưới
tựa Melancholia. Và... bị từ chối. Tội
nghiệp Sartre. Hỏi vợ, bị khước từ. Thi
agrégation triết lần đầu, trượt. Gửi đăng
tiểu thuyết đầu tay mình đã viết
hết mình[24],
bị từ chối. Cũng dễ hiểu : chẳng ai hiểu nội
dung triết của tiểu thuyết này. Người sành nhất
cũng chỉ thấy chưa có tiểu thuyết nào đen tối
đến thế ngoài tác phẩm của Kafka. Sau khi chàng
đăng L'Être et le Néant, thiên hạ
mới lần lần hiểu. Năm 1937, do bè bạn cổ động,
Gallimard nhận đăng tiểu thuyết ấy và đề nghị
tựa La Nausée.
Tư tưởng của Sartre bước vào đời dưới dạng văn
chương. Trong La Nausée, nhân vật
chính, Roquetin, lần lần ý thức con người là một
hiện thực[25]
ngẫu nhiên (contingent), không
nhất thiết, không có lý do tồn tại. Ðiều ấy,
Sartre cảm nhận từ tuổi 20. Chàng không dùng từ
hasard, cũng có nghĩa đó, có lẽ vì nó là
khái niệm gắn với khái niệm tất yếu
(nécessité) trong những tranh luận khoa học
và triết học kinh điển. Dĩ nhiên, khái niệm
contingence cũng có nghĩa đó, nhưng nó còn
có nghĩa này : con người không có ý nghĩa
(sens), giá trị (valeur) gì cả. Nếu nó là
sản phẩm cần thiết trong quá trình vận
động của vũ trụ (như Engels tưởng) hay là một
sản phẩm đặc biệt của Thượng Ðế, đời nó
có ý nghĩa, giá trị. Ý nghĩa, giá trị đó tùy
khoa học hay một đấng thiêng liêng. Nhưng nếu nó
ngẫu nhiên, nó không tự nó
có ý nghĩa, có
giá trị. Ðể trốn tránh sự thật
khiếp đảm đó, Roquetin tự dối mình, lao
vào đủ thứ ứng xử không trung thực (conduite
inauthentique), thí dụ, Tình Yêu với những
khoảng khắc độc nhất (moments uniques)
của nó. Cuối cùng, chàng hiểu : không thể giả
dối với chính mình. Tiểu thuyết kết thúc với
hình ảnh một Roquetin nghe một khúc nhạc, đột
nhiên hiểu rằng nghệ thuật là điều tất yếu duy
nhất của con người. Trong một điệp khúc, những
nốt nhạc nối đuôi nhau một cách tất yếu, nốt
trước đã thế, nốt sau phải vậy. Sự tất yếu ấy do
con người tạo ra để thể hiện chính mình. Ý
nghĩa và giá trị của con người do
chính nó sáng tạo. Nội dung triết lý cơ bản ở
đây : một cuộc đối diện cô đơn giữa ý
thức cá nhân với thân phận làm người.
Lối thoát khơi ra để mang lại cho thân phận ấy
ý nghĩa và giá trị là làm nghệ
thuật. Hoàn toàn không có kích thước xã hội,
lịch sử, chính trị. Nhưng thái độ đối diện thân
phận làm người ấy đặt đầy vấn đề cho những kiểu
suy luận lệ thuộc xã hội, lịch sử và
chính trị ! Những thái độ cực đoan thường vậy,
và Sartre cực đoan trong mọi vấn đề. Ðã viết
triết, phải đặt lại vấn đề từ đầu : con người, ý
thức là gì ? Ðã tìm hiểu người khác, phải tìm
hiểu tận gốc và toàn diện ; đã muốn sống
trung thực, phải sống trong suốt với
chính mình, với người khác, vời đời, tới cùng và
suốt đời ; đã dấn thân chính trị chống chủ nghĩa
tư bản, phải ủng hộ những khuynh hướng cực tả ;
đã yêu, phải yêu toàn diện và, do đó, chỉ yêu
Simone de Beauvoir là chính.
Hè hè, triết gia... Thái độ ấy đá phóc ta ra
khỏi những định kiến êm ả, hèn hạ, bắt ta đương
đầu với vài điều ta đã linh cảm nhưng không dám
đối mặt, bắt ta thực sự làm người.
Sau La Nausée, trước hoặc song
song với L'Être et le Néant hoặc
ngay sau đó, những tác phẩm văn chương chính,
tiêu biểu, gồm tuyển tập truyện ngắn Le
Mur, Bức Tường, tiểu thuyết L'Âge
de Raison, Tuổi trưởng thành, kịch
Les Mouches, Bầy ruồi, tiểu thuyết
Le Sursis, Thời hạn hoãn, những vở
kịch Huis Clos, Xử kín ; Morts sans
sépulture, Chết không đất chôn và
La putain respectueuse, Con đĩ kính cẩn.
Và bài nói chuyện lừng danh :
L'existentialisme est un humanisme, Chủ nghĩa
hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản.
Nội dung triết lý của các tác phẩm trên đều có
thể hiểu qua L'Être et le Néant.
Sartre bắt đầu ghi những suy nghĩ của mình để
viết quyển sách triết gốc này năm 1939, khi
chàng bị bắt lính, bước vào lịch sử thực của
thời đại của chàng. Về quá trình đó, chàng nói :
Mùa xuân 1939 đánh dấu một bước ngoặt trong đời
tôi. Tôi từ giã chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa phi
nhân bản của tôi. Tôi học được sự đoàn kết.
[...]Năm 1939, cuộc đời tôi thay đổi đột ngột,
triệt để : Lịch sử đã tóm cổ tôi để không bao
giờ buông tôi nữa[26].
Chàng chỉ bắt đầu hiểu điều đó năm 1945, hai năm
sau khi công bố L'Être et le Néant :
Chính trị là một kích thước của con người. Nhưng
điều ấy, tôi chỉ phát hiện ra cho chính tôi qua
chiến tranh, và tôi chỉ thực sự hiểu nó từ năm
1945[27].
Chàng nói :
Nếu tôi đã viết quyển
Thực-thể và Hư-vô
nhanh như thế thì vì chỉ cần viết thôi : những ý
tưởng đã có sẵn[28].
Những ý tưởng có sẵn đó, tất nhiên đã thể hiện
trong những tác phẩm văn chương đã đăng hoặc
đang hình thành song song với L'Être et le
Néant và ngay sau đó. Tất nhiên,
L'Être et le Néant và những tác phẩm
hình thành song song cũng có những ý tưởng xuất
phát từ bước ngoặt kia, từ sự đương đầu bất ngờ
giữa Sartre với Lịch Sử.
Về mặt triết lý, nội dung chung của những tác
phẩm kể trên được lý thuyết hoá trong
L'Être et le Néant. Ta hãy thử tìm hiểu,
theo Sartre [29],
nó thế nào.
L'Être et le Néant
là một quyển sách đồ sộ, khổ lớn, chữ nhỏ, dài
hơn 700 trang, rất khó hiểu, đọc vài trang đã
chóng mặt, đổ mồ hôi.
Lý do thứ nhất : ai không quen phương pháp suy
luận biện chứng của Hegel, khó mà hiểu được.
Thời ấy, ở Pháp ít ai biết đến Hegel. Một vài
trí thức Pháp biết Hegel qua những bài giảng của
Alexandre Kojève (1933-1939) tại École des
Hautes Études [30].
Tới giữa những năm 70, Pháp mới bắt đầu xuất bản
Hegel toàn tập.
Lý do thứ hai : Sartre vận dụng một văn phong
cực kỳ lạ, rất thích hợp với kiểu suy luận biện
chứng. Trong kiểu suy luận ấy, không có gì
tĩnh cả, mọi sự đều động. Không những
thế, mọi sự đều tự nó vận động. Ðể thể
hiện điều đó, Sartre lôi cổ tiếng Pháp ra khỏi
khung duy lý hình thức của nó, vặn vẹo nó, liên
miên khích động [31]
danh từ, tạo nhiều động từ mới.
Kết quả, đầy những câu kiểu : Le présent
n'est pas, il se présentifie. Hiện tại không là,
nó tự hiện tại hoá. Le soi n'est pas, il est
été. Cái tôi không là, nó đã bị là. Se
présentifier và est été không có
trong tiếng Pháp ! Ðọc liền tù tì 10 trang văn
kiểu ấy, độc giả khép sách đi ngủ, khá tự nhiên.
Tuy vậy, chịu khó tạm quên mình một tí, đọc ngấm
đòn, cũng quen thôi, có thể hiểu rõ ý vì Sartre
viết chính xác, chặt chẽ, nội dung nhất quán và,
như Jeanson đã làm, trình bầy lại một cách dễ
hiểu hơn.
Lý do thứ ba : khái niệm être là khái
niệm cơ bản trong triết học Tây Âu, mỗi triết
gia có định nghĩa riêng về nó. Từ être
trong tiếng Pháp vừa là danh từ vừa là một động
từ cơ bản, khó lòng viết một trang mà không dùng
nó nhiều lần. Cả hai có vô số nghĩa. Do sự nhập
nhằng đó, quyển sách rất khó hiểu. Trong một câu
văn, có thể có nhiều từ être với nghĩa
khác nhau, phải dịch bằng những từ ngữ khác nhau
mới hiểu được.
Vì thế, dịch hay trình bầy triết lý của Sartre
trong một ngôn ngữ khác hẳn tiếng Pháp
rất khó.
Sau đây, tôi xin thử trình bầy lại trong tiếng
Ziao Chỉ lõi đặc thù của L'Être et le
Néant, vài khái niệm chính được định
nghĩa trong đó và nhận diện hình thái văn chương
của chúng trong tác phẩm của Sartre. Xin lỗi
trước độc giả, nếu tôi thất bại.
Ðể hiểu vấn đề được bàn ở đây, phải đặt triết lý
của Sartre trong bối cảnh triết học Châu Âu, bắt
đầu từ Descartes cho đỡ phải lần mò tới những
triết gia Hy Lạp cổ. Trong bối cảnh ấy, có ba
câu hỏi lớn :
- Thực-thể (L'Être) có thực hay không có thực.
Nếu có, bản chất của nó là gì ?
- Tinh-thần có thực hay không có thực. Nếu có,
bản chất của nó là gì ?
- Tinh-thần có thể hiểu thực-thể hay không ? Vì
sao ?
Trả lời của Descartes[32]
Ða số triết gia Tây Âu coi Descartes như người
mở đường cho tư duy triết học hiện đại.
Descartes [33]
khẳng định :
- Thế giới ngoài Tôi có thực.
- Tôi
có thực (Je pense donc je suis).
Trong triết lý ấy, Tôi là
chủ thể tự do của tư duy [34],
gốc của toàn bộ những khái niệm liên quan tới
khả năng ý thức và suy luận : tinh thần,
esprit, hay linh hồn, âme (đối với
Descartes đồng nghĩa) ; ý thức, conscience ;
lý trí, intelligence ; hiểu biết, comprendre,
v.v.
Nếu ta trình bầy lại nội dung của
Méditations (Suy ngẫm) với ngôn ngữ
ngày này thì trong thế giới quan và nhân
sinh quan của mình, Descartes phân biệt :
-
Thế giới vật chất
(corps) tự tại, bất diệt, độc lập với
những gì ta có thể nghĩ về nó.
-
Thế giới sinh vật (corps humain),
có nhục cảm (sensations, sens…).
-
Thế giới tinh thần,
hoàn toàn độc lập với thế giới vật chất, khác
nhau về chất (substances
différentes)
Tinh thần có thể hiểu thế giới vật chất nếu biết
suy luận một cách có phương pháp (Discours
de la Méthode, Bàn về phương pháp suy luận)
Descartes không nói tính đặc thù của
substance des corps ([bản] chất của vật thể)
là gì. Nhưng ông là một nhà vật lý có tầm cỡ
thời ông và tác phẩm của ông cũng cho phép ta
hiểu : tính vật chất (matérialité). Vì
thế Engels đề cao Descartes như một triết gia
duy vật. Ngày nay, ta có thể nói : là năng
lượng, tuy khái niệm năng lượng cũng
không dễ hiểu ! Khái niệm vật chất (matière)
cũng vậy nốt !
Descartes cũng không nói tính đặc thù của
substance de l'esprit ([bản] chất của tinh thần)
là gì. Nhưng ít nhất và rất rõ, có ý này :
phi vật chất. Nó thuộc lĩnh vực khác, liên
hệ tới Thượng Ðế.
Ở đây, tôi không bàn tới thế giới sinh vật trong
tư duy của Descartes. Bản thân Descartes đã mô
tả sinh vật như những cỗ máy phức tạp. Nhưng
trong tác phẩm triết của ông, có nhiều nhận xét
hết sức độc đáo vẫn còn rất thời sự ngay
sau khi đọc những quyển sách như La
logique du vivant, Lôgíc của sự sống của
François Jacob (Nobel Y học) hay những bài về
sinh học mới đây trong
L'Université de tous les savoirs[35],
Ðại học của mọi kiến thức.
Nhân sinh quan của Descartes nêu một câu hỏi nan
giải. Người đầu tiên phát hiện và đặt câu hỏi đó
là Công chúa Élisabeth de Bohême trong thư từ
với Descartes : nếu tinh thần phi vật chất, làm
sao nó điều khiển được cơ thể của con người ?
Descartes công nhận rằng chàng không có giải đáp
hợp lý [36].
Mỹ nhân khả úy ! Người say sưa triết lý nên mê
mấy bà ! Ðảm bảo triết học sẽ nồng nàn khởi sắc
liền tù tì.
Hè hè, triết gia…
Trong thế kỷ 20, Schrödinger (Nobel vật lý năng
lượng) đặt lại vấn đề này trong ngôn ngữ vật lý
lý thuyết đời nay[37].
Ông cho rằng tính khách quan (objectivité,
di sản của Descartes) trong khoa
học chỉ là một giả thuyết nhằm đơn giản
hoá một vấn đề quá phức tạp. Nếu tin tưởng tuyệt
đối giả thuyết đó, không thể giải thích khả năng
hiểu biết thế giới vật chất của con người[38].
Không ai có thể biết bất cứ gì về một hệ thống
vật chất đóng (système matériel fermé). Ðể tìm
hiểu một hệ thống vật chất, ta phải tác động vào
nó bằng một năng lượng, xem nó phản ứng thế nào.
Tinh thần không là năng lượng, không thể tác
động vào một hệ thống vật chất, do đó không thể
hiểu thế giới vật chất ! Vì thế Schrödinger đã
đi tìm giải đáp trong triết lý của Mach[39]
và trong những Veda của Ấn Ðộ cổ. Ông khẳng
định : sẵn sàng từ bỏ tư duy duy lý hình thức
với điều kiện có một kiểu tư duy nào hơn nó
tức là, tối thiểu, cho phép con người đạt
những kiến thức nó đã đạt được với tư duy duy lý
hình thức.
Toàn bộ những trước tác của Trần Ðức Thảo, như
ông đã từng viết, từ Phénoménologie et
matérialisme dialectique, Hiện tượng luận và chủ
nghĩa Duy vật biện chứng, cho tới khi
ông chết ở Paris, cũng nhằm giải quyết câu hỏi
trên.
Trả lời của Kant
Nhân sinh quan của Kant (Critique de la
raison pure, Phê phán Lý trí tinh khiết)
cơ bản vẫn là nhân sinh quan của Descartes : hai
thế giới biệt lập, vật chất và tinh thần. Bước
phát triển căn bản : tinh thần chỉ có thể biết
thế giới vật chất qua những dạng mà giác quan
của con người cảm nhận nó [40].
Những dạng ấy, Kant gọi là hiện tượng (phénomène).
Con người không có khả năng biết Sự vật - tự
nó, chỉ có khả năng biết nó xuyên qua những
hiện tượng. Một đặc điểm của hiện
tượng là nó có hình thái (forme).
Nhưng khả năng phát hiện hình thái đòi
hỏi một tiền đề : linh thức (intuition
transcendentale) Không gian. Một hình
thái chỉ có thể xuất hiện trên một cái phông :
Không gian. Cũng với suy luận kiểu này,
Kant đặt ra một linh thức khác, Thời
gian và khẳng định hai linh thức ấy
cần và đủ để giải thích khả năng ý thức, hiểu
biết của con người trong mọi lĩnh vực[41].
Sau đó, ông bàn liên miên về 10 phạm trù cơ bản
của tư duy của Aristote.
Có lẽ dịch forme bằng hình thù
chính xác hơn vì trong đoạn văn bàn tới vấn đề
này, Kant nói tới những gì con mắt có thể
cảm nhận. Nhưng dịch bằng hình thái đúng
hơn với khái niệm triết forme. Khái niệm
đó ám chỉ toàn bộ khả năng cảm nhận của con
người, cơ sở của khái niệm monde sensible,
thế giới ta cảm nhận. Bản thân con mắt cũng
thấy cùng lúc hình thù và mầu sắc ! Chưa kể đến
khả năng cảm nhận thế giới ngoài Tôi
của những giác quan khác.
Hai điều quan trọng ở đây [ý của tôi] :
- Kant gắn liền khả năng ý thức của con người
với tính sinh vật của nó !
- Khái niệm hiện tượng của Kant không ám
chỉ một thuộc tính của sự vật hay một thuộc tính
của tinh thần. Nó cũng không ám chỉ một 'cái gì'
có thực trong thế giới tự nhiên. Nó diễn đạt
quan hệ giữa tinh thần với thế giới bên
ngoài. Quan hệ đó bị ngôn ngữ 'vật thể hoá'
thành danh từ, điều khá 'tự nhiên' trong tiếng
Ðức hay tiếng Pháp và cũng phù hợp với nhân sinh
quan của Kant : đó là một quan hệ không có thời
gian tính.
Trả lời của Hegel
Hegel phủ định triết lý của Kant, đưa ra một thế
giới quan và một phương pháp suy luận mới. Trong
thế giới quan của Hegel, không còn sự phân li
tuyệt đối giữa thế giới bên ngoài và ý thức. Thế
giới thực (le réel) là một thế
giới thống nhất :
Ce qui est rationnel est réel ; et ce qui est
réel est rationnel, Ðiều có lý có thực, và điều
có thực có lý [42].
Quan trọng hơn : thế giới thực đó không ngừng
vận động, biến tướng. Ðiều chúng ta có thể ý
thức và hiểu không là bản chất (essence)
hay bản thể (être) của sự vật, tất cả
những thứ đó chỉ là những hình thái tạm thời
trong quá trình vận động của mọi sự. Ðiều ta có
thể hiểu là quá trình vận động không
ngừng sản sinh mọi sự vật, sự kiện, từ thế giới
vật chất đến tư duy của con người. Phương pháp
suy luận biện chứng cho phép ta hiểu quá trình
vận động ấy.
Theo Engels, Hegel sống trong một thời đại có
thời trang sau : triết gia chưa xây dựng một hệ
thống tư duy vĩnh viễn bao trùm mọi kiến thức,
giải thích mọi chuyện, vạch ra sự thực tuyệt
đối, chưa đáng mặt triết gia. Do đó Hegel đã gói
ghém toàn bộ trước tác của ông trong một hệ
thống kiến thức với một khởi điểm duy nhất (đồng
thời cũng là kết quả cuối cùng) là
Ý Niệm Tuyệt Ðối (Idée Absolue[43]).
Ý Niệm Tuyệt Ðối tự phân hoá thành hai
cực đối lập, mỗi cực lại tự phân hoá thành hai
cực đối lập khác, và cứ thế vũ trụ, sự sống và
tư duy hình thành. Tóm lại : mọi sự đều vô ngã,
vô thường, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi
sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái… cứ như
triết lý mà Chu Chỉ Nhược mách khéo cho Trương
Vô Ky trên Quang Minh Ðỉnh ! May thay, Hegel
không biết võ công, không có nhu cầu ký đầu ai
để giúp người ấy thành Phật. Ông chỉ muốn giải
thích quá trình phát triển của lý trí.
Trong nhân sinh quan của Hegel, toàn bộ những gì
con người có thể bàn tới chỉ là những hình thái
tạm thời, có tính lịch sử, của một quá trình vận
động. Ðóng góp đặc sắc của Hegel là một phương
pháp suy luận cho phép tìm hiểu quá trình vận
động đó trong đủ thứ lĩnh vực của tư duy, phương
pháp suy luận biện chứng. Hegel lớn ở đó. Người
đời sau chế diễu ông đã đồng nhất Ý thức
tuyệt đối với triết lý của ông và sự hiện
thực của nó với Nhà nước Phổ : tiểu nhân đắc
chí.
Năm 1933, Sartre được một học bổng, qua Berlin
một năm, tìm hiểu Hiện Tượng Luận
(Phénoménologie) của Husserl. Năm 1945,
Sartre mới đọc Phénoménologie de l'Esprit,
Hiện tượng luận về Tinh thần của Hegel.
Nhưng trong L'Être et le Néant,
chàng bàn tới Hegel rất nhiều. Có thể chàng biết
Hegel qua những giáo trình của Kojève, nhưng
cũng có thể là qua sách chàng đọc tại Berlin.
Trả lời của Sartre
Nhân sinh quan của Sartre nằm trong nhân sinh
quan của Descartes : có một thế giới vật chất
tự-tại ngoài ý-thức của con người và
một thế giới tinh thần khác hẳn, tuy không độc
lập với nó (khác Descartes) nhưng không phụ
thuộc nó, biệt lập (transcendant,
giống Descartes).
Bản thể của Thực-thể-tự-tại, Être-en-soi
Sartre khởi đầu bằng nhận xét của Husserl [44] :
ý-thức luôn luôn là ý-thức
về điều gì, la conscience est toujours
conscience de quelque chose.
Quelque chose có thể dịch là cái gì.
Dịch thế, không đúng. Cái gì đó, trong triết lý
của Sartre có thể là chính mình ! Nhưng trong
nhiều thí dụ, Sartre dùng vật thể làm đối tượng
của ý-thức, trong trường hợp đó, dịch
bằng cái gì dễ nghe hơn[45].
Ý-thức về cái gì cũng có
nghĩa không là cái đó. Thí dụ : ta
ý-thức về cái bàn thì ta
không là cái bàn. Nguồn gốc và ý
nghĩa của phủ định (négation) nằm ngay
trong hai từ không là đó. Khác
biệt cơ bản giữa thực-thể và ý-thức
ở đó. Thực-thể tự nó là nó,
chỉ là nó, luôn luôn và vĩnh viễn
là nó. Ý-thức không
là.
Hình thái ý-thức này, Sartre gọi là cogito
preréflexif, ý-thức chưa có suy luận. Một
loại ý-thức-trực-giác.
Chương đầu của L'Être et le Néant
kết thúc như thế. Kết luận chính, tính đặc thù
của thực-thể là :
L'être est. L'être est en soi. L'être est ce
qu'il est.[46]
Thực-thể là. Thực-thể tự-tại. Thực-thể là cái gì
nó là.
il ne se pose jamais comme autre qu'un autre
être ; il ne peut soutenir aucun rapport avec
l'autre. Il est lui-même et il s'épuise à l'être[47].
nó không bao giờ tự đặt mình như khác một
thực-thể khác ; nó không có khả năng quan hệ với
bất cứ gì khác nó. Nó là nó và là như thế đến
kiệt sức[48].
Nhìn theo góc độ của người (anthropologie) :
Incréé, sans raison d'être, sans rapport aucun
avec un autre être, l'être-en-soi
est de trop pour l'éternité[49].
Không do ai tạo ra, không có lý do tồn tại,
không có quan hệ nào với một thực-thể khác,
thực-thể-tự-tại
vĩnh cửu có thừa[50].
Thực-thể
ấy, Sartre gọi là être-en-soi,
thực-thể-tự-tại, cho nó là ngẫu nhiên
(contingent), không cần thiết, không có lý do
tồn tại. Nếu ta hiểu être-en-soi là
toàn bộ vũ trụ vật chất thì đây là thực-thể
của Descartes và Kant. Hiểu như thế, sai. Trong
tư tưởng của Sartre nó còn có cả một phần của
con người.
Hư-vô, Néant
Ðặt câu hỏi về bất cứ điều gì là chấp nhận
trước khả năng có 2 trả lời : có hoặc
không, linh cảm hiện diện của hư-vô.
Hư-vô đối với cả vũ trụ : ngoài vũ
trụ, có gì ? Không có gì cả. Hư-vô
đối với chính mình : ta là
gì ? Không biết. Không là
gì cả.
La condition nécessaire pour qu'il soit possible
de dire
non,
c'est que le non‑être soit une présence
perpétuelle, en nous et en dehors de nous, c'est
que le néant
hante
l'être[51].
Ðiều kiện cần thiết để có thể nói
không
là vô-thể luôn luôn có mặt, trong chúng ta và
ngoài chúng ta, là hư-vô
ám ảnh
thực-thể.
Thực-thể-vì-mình, Être-pour-soi
Hư-vô
từ đâu ra ?
Nó không thể từ thực-thể-tự-tại mà có
được. Thực-thể-tự-tại là
nó, vĩnh viễn là nó, không thể
tiết ra một điều gì khác nó. Hư-vô không
thể tự-tại vì nó không có thực. Nó không
thể có một cách độc lập với thực-thể-tự-tại
vì hư-vô luôn luôn là hư-vô
của một điều gì, le néant de
quelque chose. Hư-vô cũng không thể
tự-hư-vô-hoá, vì trước khi có thể
tự-hư-vô-hoá, phải là cái đã :
Le Néant n'est pas, le Néant
‘est été’ ;
le Néant ne se néantise pas, le Néant
'est néantisé'[52]'.
Hư-vô không là, Hư-vô
'đã bị là' ;
Hư-vô không tự-hư-vô-hoá, Hư-vô
'đã bị hư-vô-hoá'.
Người Pháp cũng khó mà hiểu nổi ! Chia động từ
être kiểu này không có trong tiếng Pháp,
chỉ bắt đầu xuất hiện dưới ngòi bút của Sartre.
Ý thế này : hư-vô không tự nó có thực, nó
là kết quả của một quá trình hư-vô-hoá
như quá khứ là kết quả của quá trình sống. Ðiều
quan trọng ở đây : chủ thể của quá trình
hư-vô-hoá không là Hư-vô ('đã
bị hư-vô-hoá').
Vậy, phải
có một thực-thể mang hư-vô vào thế giới : un
être par quoi le néant vient aux choses[53].
Ðể làm chuyện ấy :
l'être par qui le Néant vient au monde doit être
son propre Néant[54].
thực-thể mang Hư-vô vào thế giới phải là Hư-vô
của chính mình.
Ðó là bản thể của nó. Thực-thể ấy chính
là con người.
Con người có ý-thức về.
Nhưng nó không thể ý-thức về
bất cứ điều gì mà không đồng thời ý-thức rằng
nó đang ý-thức, la conscience d'être
conscient, không thể không ý-thức
về chính mình (soi). Ý-thức
về mình cũng có nghĩa :
không là mình, là
hư-vô-hoá chính mình ! Ðể nhấn
mạnh hình thái ý-thức đặc biệt này,
Sartre viết : conscience (de) soi, ý-thức
(về) mình . Thực-thể đặc
biệt này Sartre gọi là Thực-thể-vì-mình,
Être-pour-soi.
Cette possibilité pour la réalité humaine de
sécréter un néant qui l'isole, Descartes, après
les Stoïciens, lui a donné un nom : c'est la
liberté[55].
Khả năng tiết ra một hư-vô tách mình ra khỏi mọi
sự của hiện-thực-người, Descartes, sau các triết
gia của phái Khắc-kỷ, đã đặt tên cho nó :
tự-do.
Ce que nous appelons liberté est donc impossible
à distinguer de
l'êtrede
la 'réalité humaine'. L'homme n'est point
d'abord pour être libre ensuite, mais il n'y a pas de
différence entre l'être de l'homme et son
'être‑libre'.
Như thế, điều chúng ta gọi là tự-do không thể
phân biệt được với
thực-thể
của 'hiện thực người'. Con người không
đã
có để rồi trở thành tự-do sau đó. Không có khác
biệt giữa thực-thể người với 'là-tự-do'.
Cái mình (soi) kia, Sartre gọi là
bản chất, essence của con người. Nó không
có tự nó, nó là sản phẩm của toàn bộ quá trình
tự-hư-vô-hoá của ta, nó là ta dưới dạng
đã bị là. Vì thế, ta chỉ trở
thành ta sau khi chết và chỉ lúc đó người
đời mới biết được ta là gì,
là ai. Sartre bình luận câu văn nổi
tiếng của Malraux như vậy : Cái chết biến
cuộc sống thành định mệnh (La mort transforme la
vie en destin). Khi đã chết, con người hết
khả năng thay đổi đời mình, cuộc đời ấy đọng lại
thành thực-thể-tự-tại, khách quan, thành
định mệnh. Nó là nó, chấm hết.
Ý nghĩa, giá trị của nó đều do tha-nhân
quyết định. Ðây là nội dung cơ bản của vở kịch
Huis-Clos, Xử kín.
Ba nét đặc thù của thực-thể-vì-mình là :
a/ nó ngẫu nhiên như thực-thể-tự-tại
vì nó không thể có ngoài thực-thể-tự-tại.
b/ tuy nó có sau thực-thể-tự-tại, nó
không lệ thuộc thực-thể-tự-tại, nó biệt lập
(transcendant).
c/ nó không là nền tảng của nó (fondement
de soi) nên luôn luôn thiếu hụt (manque)
điều gì để là chính mình như
thực-thể-tự-tại. Ðiều nó thiếu hụt
chính là điều nó hư-vô-hoá :
thực-thể-tự-tại. Thực-thể-tự-tại
ám ảnh nó. Vì nó hư-vô-hoá chính
mình, nó thiếu hụt… chính mình !
Ainsi cet être perpétuellement absent qui hante
le pour‑soi, c'est lui‑même figé en en‑soi.
C'est l'impossible synthèse du pour‑soi et de
l'en‑soi : il serait son propre fondement non en
tant que néant mais en tant qu'être et garderait
en lui la translucidité nécessaire de la
conscience en même temps que la coïncidence
avec soi de l'être en soi [56].
Như thế, cái thực-thể luôn luôn vắng mặt ám ảnh
thực-thể-vì-mình, là chính nó đọng lại thành
thực-thể-tự-tại. Ðó là sự tổng hợp bất khả thi
của thực-thể-tự-tại với thực-thể-vì-mình : nếu
khả thi, thực-thể-vì-mình sẽ là nền tảng của
chính mình, không với tư cách hư-vô mà với tư
cách thực-thể, vừa giữ sự trong suốt cần thiết
của ý-thức vừa trùng hợp với chính mình như
thực-thể-tự-tại.
Thực-thể-do-tha-nhân, Être-pour-Autrui
Ta trực giác tha-nhân qua
thể-xác[57]
(corps)
của ta và của tha-nhân. Bản thể của
thể-xác là :
J'existe mon corps : telle est sa première
dimension d'être. Mon corps est utilisé et connu
par autrui : telle est sa seconde dimension.
Mais en tant que je suis pour autrui, autrui se
dévoile à moi comme le sujet pour lequel je suis
objet. [...] J'existe pour moi comme connu par
autrui à titre de corps. Telle est la troisième
dimension ontologique de mon corps [58].
Ta nghiệm sinh thể-xác của ta : đó là kích thước
bản thể đầu tiên của nó. Thể-xác của ta,
tha-nhân dùng và biết : đó là kích thước bản thể
thứ hai của nó. Nhưng vì ta
là
đối với tha-nhân, tha-nhân tự lộ diện với ta như
một chủ thể lấy ta làm vật thể. [...] Ta nghiệm
sinh chính ta như một thể-xác mà tha-nhân biết
[là gì]. Ðó là kích thước bản thể thứ ba của
thể-xác của ta.
Trực giác ấy bao hàm hai ý nghĩa :
a/ Tha-nhân ý-thức về
ta.. Ðối với tha-nhân ta là
một cái gì. Vậy tha-nhân có thể mang lại
điều ta thiếu hụt : thực-thể-tự-tại,
khiến ta là ta.
b/ ta là gì trong mắt tha-nhân,
ta không thể biết, không thể làm chủ vì
tha-nhân tự-do như ta.
[…] l'existence d'autrui me révèle l'être que je
suis, sans que je puisse ni m'approprier cet
être ni même le concevoir, […] autrui me
regarde
et, comme tel, il détient le secret de mon être,
il sait ce que je
suis[59] ;
[…] sự hiện hữu[60]
của tha-nhân tiết lộ cho ta rằng ta
là,
mặc dù ta không thể nào chiếm hữu thực-thể đó và
cũng không có ngay cả khả năng hình dung nó thế
nào […] tha-nhân
nhìn
ta và, trong tư thế ấy, nắm giữ bí mật của
thực-thể của ta, nó biết ta
là gì ;
Diễn Nôm : Mình chỉ biết mình là
gì, là ai qua ánh mắt của người
khác !
[…] en tant qu'autrui comme liberté est
fondement de mon être‑en‑soi, je puis chercher à
récupérer cette liberté et à m'en emparer, sans
lui ôter son caractère de liberté : si je
pouvais, en effet, m'assimiler cette liberté qui
est fondement de mon être‑en‑soi, je serais à
moi-même mon propre fondement[61].
Vì tha-nhân, với tư cách là tự-do, là nền tảng
của thực-thể-tự-tại của ta, ta có thể tìm cách
chiếm hữu tự-do ấy tuy không hủy bỏ tính tự-do
của nó : đúng thế, nếu ta nhập được vào ta cái
tự-do làm nền tảng cho thực-thể-tự-tại của ta,
ta sẽ là nền tảng của chính mình.
Hoài bão ấy, đam mê ấy, Sartre gọi là…
tình-yêu[62] !
Ê, diễn Nôm để xả hơi một tí nhe. Nếu em yêu anh
vì : a/ anh đẹp trai, b/ anh học giỏi, có nhiều
bằng cấp, c/ anh con nhà giàu, có đầy tiền, anh
không thích đâu. Anh muốn em yêu anh vì anh
là anh và, do đó, em
không thể yêu ai khác. Này, chàng ơi,
muốn thế thì bỏ mạng đấy, Ðịa ngục, chính là
nàng đấy.
L'Être et le Néant gồm : Nhập đề : bàn về
Thực-thể-tự-tại. Phần 1 : bàn về Hư-vô.
Phần 2 : bàn về Thực-thể-vì-mình. Phần
3 : bàn về Thực-thể-do-tha-nhân. Phần 4 :
bàn về Sở-hữu, Làm và Là,
Avoir, Faire et Être. Phần 5 : kết luận.
Tuy những đàm luận của Sartre lý thú, ta nên
ngừng ở đây. Nội dung các phần còn lại có thể
suy diễn ra dễ dàng. Vắn tắt. Ðam mê sở-hữu
là một đam mê hão, thể hiện nếp sống không
trung thực. Quan hệ giữa là và
làm phức tạp hơn. Ta bắt buộc phải
làm để là. Nếu ta
làm để là tổng thống,
tỷ phú, nhà văn hay đĩ, ta sống một cách
không trung thực. Nếu ta muốn sống trung
thực với chính mình, ta nên sống để
làm người, kẻ không ngừng phủ định
tất cả, kể cả chính minh.
Khái niệm tự-do-trong-bối-cảnh (liberté en
situation)
Con người có khả năng phủ định vì nó
tự-do. Nhưng không có phủ định hay
tự-do chung chung. Phủ định luôn luôn
là phủ định điều gì. Tự-do luôn
luôn là tự do đối với. Ta
phủ định điều gì, điều đó định nghĩa ta,
ta đã bị là điều ấy.
Vì thế Sartre lật ngược câu của Spinoza và
viết : Toute détermination est
négation, Mọi xác định đều là
phủ định[63].
Câu văn nổi tiếng của Spinoza là : Toute
négation est détermination, Mọi phủ định
đều là xác định. Hegel đồng ý với Spinoza
nên cho rằng phủ định một điều gì nghĩa
là vượt (dépasser) nó nhưng vẫn
giữ nó trong mình. Một thí dụ dễ hiểu : quan
điểm về vũ trụ của Einstein phủ định quan
điểm của Newton. Nó không xoá sạch quan điểm của
Newton, vẫn đúng vẫn hữu dụng trong một khung
cảnh hành động nhất định. Nó bao trùm, giải
thích, hoàn thiện quan điểm của Newton. Một thí
dụ khó nuốt : tôi phủ định chủ nghĩa cộng
sản thì nó định nghĩa chính tôi. Người đời, cảm
nhận lờ mờ điều ấy, gọi tôi là người chống
cộng. Tự-do đối với có nghĩa :
dù muốn dù không, ta tự-do nhưng, cụ thể,
ta tự-do đối với điều ta phủ
định, ta tự-do tùy và mặc dù hoàn
cảnh, ta tự-do-trong-bối-cảnh.
Khái niệm Thượng đế, Dieu (Chúa của Ky-tô giáo)
Thượng đế là thực-thể tự-tại và
vì-mình, être-en-soi et pour-soi.
Ðiều đó mâu thuẫn, không thể có được.
Khái niệm sự thực (vérité), sự trung thực với
chính mình (authenticité), sự giả dối với chính
mình (mauvaise foi)
Nói sự thực là nói mọi chuyện đúng như nó
là nó.
Ngay trong quan hệ giữa người với thế giới vật
chất cũng không thể làm được. Tôi ngắm ly rượu,
phán : rượu mầu đỏ. Tôi nói dóc.
Làm gì có mầu tự nó là đỏ ! Trong
vật lý, mầu đỏ là một cụm từ vô nghĩa, vô dụng,
không thể đưa vào một phương trình tính toán.
Trong vật lý, chỉ có độ dài của một làn sóng
biểu hiện bằng một con số (lượng), không có mầu
đỏ. Mầu đỏ là một quan hệ về chất giữa
một cá nhân với thế giới [64].
Quan hệ cá nhân ấy chỉ có giá trị cá nhân.
Trong quan hệ giữa người với người, giữa con
người với chính mình, càng không thể thực hiện
được. Con người chỉ là quá trình phủ định
tất cả, kể cả chính mình, nó không tài nào
là nó, không thể là gì
cả, nó không có khả năng nói nó là
gì, là ai, không có khả năng nói
sự thực về nó. Ðiếu đó, nó biết rõ qua
nghiệm sinh của nó. Khi nó giả vờ sống như thể
nó là cái gì, là
chính mình, cần thiết, có lý do tồn
tại, có nghĩa, có giá trị
tự nó, nó tự dối mình (mauvaise
fois), sống một cách không trung
thực (inauthentique). Nó làm vậy vì nó khát
khao tự-tại (la foi de la mauvaise
foi, niềm tin của sự giả dối). Sartre đã
từng giải thích, những nhân vật trong 4 truyện
ngắn của tuyển tập Le Mur, Bức tường,
đều thể hiện nếp sống không
trung thực[65].
Lời đó có thể áp dụng cho toàn bộ tác phẩm văn
chương của Sartre trong gian đoạn này.
Trong L'Être et le Néant, dựa vào
một số nhận xét, khái niệm cơ bản, Sartre phân
tích, định nghĩa lại rất nhiều khái niệm của
triết học, của đời sống hàng ngày : Thực-thể,
Hư vô, khách quan, chủ quan, khả năng hỏi, sự
giả dối với chính mình, sự thực, sự thành thực,
mình, thời gian, lượng và chất, kiến thức, thể
xác, tình yêu, ngôn ngữ, nhu cầu hành hạ mình,
sự thèm muốn xác thịt, sự thù hận, nhu cầu tra
tấn người khác, tự-do, v.v. Những phân tích
ấy đều đáng đọc, chúng bổ sung nhau một cách
nhất quán. Không thể trình bầy lại ở đây. Tuy
vậy, những phân tích ấy xuất phát từ một lõi lý
luận chung. Ðể dễ nhớ, tôi gạt qua những suy
luận chi tiết, tóm tắt thô sơ tư tưởng
của L'Être et le Néant như sau.
Thực-thể,
toàn bộ những gì có thật gồm ba phần [66] :
Thực-thể-tự-tại (Être-en-soi),
Thực-thể-vì-mình (Être-pour-soi),
Thực-thể-do-người-khác (Être-pour-autrui).
Tính đặc thù của thực-thể-tự-tại
là :nó là nó, chấm hết. Trong
thực-thể-tự-tại có cả vũ trụ và quá khứ của
con người. Quá khứ ấy cũng tự-tại,
khách quan. Hôm qua, ngắm Nhà Thờ Ðúc Mẹ vút
từ sông Seine lên trời, anh bỗng yêu em.
May thay, em có đó. Anh bèn ôm em, thiết tha,
nồng nàn hôn em cái chụt. Ðó là
một sự thật khách quan, vĩnh viễn là
chính nó, không gì có thể khiến nó khác nó. Như
mọi sự thật, nó đã bị là, nó là
sự-thật-đã-trở-thành (Toute vérité est
devenue). Nó là một thành phần cấu tạo
bản chất (essence) của tôi. Tôi là
nó, không thể chối cãi, trốn tránh được. Nhưng
hôm nay, tôi không là nó. Trước
mắt tôi có vô vàn khả năng làm người
trong đó nó chỉ là một. Không có gì cấm tôi tiếp
tục làm nó. Không có gỉ bắt tôi làm
nó.
Tôi là nó và không là
nó, tôi phải là nó theo kiểu
không là (l'être qui a à être
lui-même sur le mode du n'être pas). Nếu em
bắt tôi thề thốt liên miên, bắt tôi phải
là tôi, vĩnh viên là tôi,
sẽ có ngày em lãnh đủ : Ðịa ngục, chính là
tha-nhân. Tôi với em đã vậy. Em với tôi,
than ôi, cũng… thế thôi ! Là đàn
ông, khốn nạn thật.
Tính đặc thù của thực-thể-vì-mình
là : nó là một quá trình phủ định liên
miên, phủ định toàn bộ thực-thể-tự-tại
và phủ định chính mình, vươn tới
tương lai của mình. Tương lai ấy không
là gì cả, hoàn toàn vô định. Con
người hoàn toàn tự-do và
hoàn toạn tùy thuộc nội dụng cụ thể của phủ
định cụ thể : anh phủ định gì ? Những
hình thái có thể (possibles) của những
tương lai ấy gọi là projet (dự-kiến)
trong nghĩa projet de soi, dự-kiến
làm chính mình. Ðam mê (passion)
cơ bản nhất của thực-thể-vì-mình là được
tự-tại như thực-thể-tự-tại
nhưng đồng thời vẫn là
thực-thể-vì-mình. Dưới hình thái tôn giáo,
đó là đam mê hoà mình với Thượng Ðế.
Trong đời thường, đó là đam mê được là
chính mình. Những đam mê ấy hão, dồn con
người vào kiếp sống không trung thực.
Tính đặc thù của Thực-thể-do-tha-nhân
là : tha-nhân là kẻ duy nhất có thể mang
lại cho mình phần thiếu hụt của mình,
thực-thể-tự-tại.
Nhưng tha-nhân cũng tự-do như
mình. Vì thế, trong tình yêu thông thường, mình
có nhu cầu chiếm hữu tha-nhân một
cách đặc biệt, chiếm thể-xác, đã đành, vì
tha-nhân hiệu hữu với mình qua thể-xác
của nó. Nhưng cơ bản hơn, chiếm hữu một linh hồn
với tư cách linh hồn, tức là tự-do, nhưng
chỉ tự-do để khẳng định mình thôi.
Ðam mê hão đó dồn con người vào nếp sống không
trung thực.
Vì thế, giữa ba phạm trù cơ bản của con
người-trong-thế-giới (être-dans-le monde),
Avoir, Faire, Être (Sở-hưu, Làm, Là ),
Sartre chọn phạm trù Làm để làm người.
Trong giai đoạn đầu đời, chàng tưởng làm nghệ
thuật là xong chuyện.
Nội dung triết của các tác phẩm văn chương của
Sartre trong giai đoạn này, cơ bản là nội dung
trình bầy trong L'Être et le Néant.
Chính Sartre đã nói : các tác phẩm ấy vạch mặt
kiểu sống không trung thực. Những câu văn
nổi tiếng của chàng phải hiểu với nội dung ấy.
Vài thí dụ :
L'homme est une passion inutile ,
Con người là một đam mê hão. Ðam mê hão ở đây là
đam mê trở thành L'Être-en-soi et
pour-soi, Thực-thể-tự-tại-và-vì-mình,
trở thành Thượng đế hay đam mê là
chính mình. Vì điều đó không thể thực hiện được,
đam mê ấy dồn con người vào kiếp sống không
trung thực. Dịch từ inutile bằng
hão chính xác hơn dịch bằng vô ích.
Vô ích chỉ nói lên sự bất lực, lại có
nghĩa vô dụng, không khơi tính hão huyền, tự
lừa dối mình.
Salauds, đồ đểu .
Một khái niệm đặc thù của Sartre, đã trở thành
thời thượng suốt một thời, xuất hiện lần đầu
trong La Nausée. Nó chê trách những kiếp
sống trong đó con người giả vờ tin rằng mình
là, cần thiết, có
nhiệm vụ, thực-thể của mình trong thế
giới tất yếu. Một biểu tượng nổi tiếng
của khái niệm này là nhân vật Lucien trong
L'enfance d'un chef, Tuổi thơ của một sếp.
Tất nhiên, với Sartre, những ông sếp trên đời
đều là đồ đểu.
L'Enfer, c'est les Autres, Ðiạ ngục, chính là
tha-nhân .
Nội dung triết lý của nó : tha-nhân là kẻ
duy nhất có thể mang lại cho mình phần thiếu
hụt của mình, tha-nhân nắm trong tay
bí mật của chính mình, vì thế mình cứ phải lẽo
đẽo theo Tha Nhân để trở thành mình. Vì
tha-nhân là tự-do, mình không bao
giờ được cho điều đó, có khi còn bị gán đủ thứ
chuyện mình không ngờ nổi, nhưng vẫn phải gánh !
[Trừ khi mình gặp Simone de Beauvoir.
Hè, hè, triết gia...]
Tựa La Putain respectueuse, Con đĩ kính
cẩn, và nội dung vở kịch ấy cũng thể
hiện triết lý của L'Être et le Néant.
Mặc dù mình đã bị người đời biến mình thành đĩ,
mình vẫn kính trọng (respecter) quan điểm đó của
người đời, tự coi mình là đĩ. Vở
kịch hay ở điều sau. Con đĩ làm như thế vì nó
tin tưởng những giá trị do người đời tạo ra,
nó tự chấp nhận là đĩ vì nó còn
tin tưởng ở người. Nó đáng thương ở đó. Những
đứa coi nó là đĩ, là
một loại người hạ cấp, không cùng 'bản
chất' với mình, không đáng mặt người.
Câu văn trứ danh La liberté, c'est
l'angoisse du choix, Tự-do, chính là khắc khoải
lựa chọn, có nội dung triết sau :
khắc khoải không do mình sợ lựa chọn đúng
hay sai và do đó có thể không đạt điều mình
muốn, mà do mình sợ tự-do của chính
mình : không có lý do nào khiến mình
phải lựa chọn tương lai này hay tương lai
khác, chính mình tạo lý do đó và mình thừa biết
lý do đó không đầy đủ để giải thích lựa chọn của
mình. Trước vực thẳm, mình phải lựa chọn
giữa hai khả năng của chính mình : bổ đầu xuống
đó hay ngoảnh mặt, đi chỗ khác. Hai lựa chọn đó
đều không tất yếu, đều 'vô lý'.
Ðây là ý nghĩa của chương một, quyển 4 trong bộ
Les chemins de la liberté (Những nẻo đường
tự-do), đăng trong Les
Temps modernes. Bỏ dở) : nhân vật cầm
dao cạo râu, thời đó có thể cứa cổ, nhìn mình
trong gương... chấm hết.
Giai đoạn 2, từ chiến tranh thế giới 2 tới 1968.
Ðọc L'Être et le Néant, có điều
đáng chú ý. Sartre phê phán nhiều triết gia lớn,
từ Descartes tới Heidegger, không có một lời về
Marx. Thủa đó, chàng chưa hiểu Marx :
Chính vào thời điểm ấy [1925] tôi đọc Tư Bản
Luận và Ý thức hệ Ðức : tôi hiểu tất cả một
cách sáng lạn và tôi không hiểu gì cả. Hiểu là
tự thay đổi mình, đi xa hơn chính mình : đọc
những quyển sách ấy không thay đổi tôi[67].
Chàng giải thích : thời đó ở Pháp, trong Ðại học
không có ghế giáo sư cho môn Chủ nghĩa Marx,
sinh viên cộng sản nêu tới ắt thi trượt. Thiên
hạ khiếp sợ (horreur) lối tư duy biện chứng đến
mức bọn chàng không biết ngay cả Hegel là ai.
Bước ngoặt trong cuộc đời và tư tưởng của Sartre
do thời cuộc. Ðột nhiên chàng phải công nhận :
không thể làm người một mình trong một xó, dù là
làm nghệ thuật. Người ta không cho phép chàng
làm người như thế ! Ðột nhiên chàng bị người ta
lôi cổ vứt vào một toa xe lửa đi tới một nơi
mình không muốn tới, cùng với một đống thanh
niên cũng không muốn tới đó chút nào, để làm một
chuyện họ không muốn làm : bắn giết. Rồi chàng
bị thộp cổ làm tù binh, khám phá một thân phận
làm người khác. Chàng vượt ngục nhờ giấy tờ giả,
về Paris, lao vào chính trường chống phátxít Ðức
và, từ đó, không bao giờ rời chính trường nữa.
Nghiệm sinh chiến tranh, chàng hiểu nhiều điều
về chính chàng, về thế giới. Những điều cơ bản
nhất là :
a/ con người là một thực thể xã hội.
b/ con người làm người trong bối cảnh lịch sử,
trong thế giới. Thế giới và
lịch sử ở đây không chỉ là thế giới,
lịch sử của cá nhân như trong L'Être
et le Néant, nó là thế giới và lịch sử
của cả nhân loại.
c/ tóm lại, chính trị là một kích thước
cơ bản của con người [68].
Trước chiến tranh, tôi đơn thuần tự coi mình như
một cá nhân, tôi hoàn toàn không thấy mối liên
hệ giữa con người cá nhân của tôi với xã hội
trong đó tôi sống.
Cho tới thời điểm đó, tôi tưởng rằng tôi tuyệt
đối tự chủ với đời tôi và phải cho đến khi, qua
tổng động viên, tôi gặp sự phủ định tự do của
tôi, tôi mới ý thức được sức đè của thế giới và
sợi giây gắn bó tôi với mọi người và gắn bó mọi
người với tôi.
ta chỉ có thể hiểu một cá nhân, bất kể ai, nếu
ta nhìn nó như một thực thể xã hội. Mọi người
đều có kích thước chính trị.
Lúc đó, nếu ông muốn, chính là lúc tôi đi từ chủ
nghĩa cá nhân, từ con người cá thể nguyên chất
của tôi trước chiến tranh, đi tới ý niệm xã hội,
tới chủ nghĩa xã hội. Ðó là bước ngoặt đích thực
trong đời tôi - trước, sau. Trước, tư tưởng của
tôi đã khiến tôi viết những tác phẩm như Buồn
Nôn,
trong đó quan hệ [của tôi] với xã hội là siêu
hình, và sau đó, lần lần tôi đi tới Phê phán
lý trí biện chứng.
Sau khi đăng L'Être et le Néant,
năm 1947-1948, Sartre ghi chép suy nghĩ của mình
để viết tác phẩm Luân lý học (Morale)
mà, trong đoạn cuối của L'Être et le
Néant, chàng hứa sẽ viết. Gallimard đăng
những ghi chép đó năm 1983, dưới tựa
Cahiers pour une morale. Lại một tập
giấy dầy cộm, bỏ dở. Phải chăng chàng đã bỏ dở
vì bản thể luận của L'Être et le Néant
không đủ để làm nền tảng cho một Luân lý
học ? Tôi xin nêu câu hỏi.
Tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn này là... một
vở kịch trác tuyệt, Le Diable et Le Bon
Dieu, Ác Quỷ và Thượng Ðế (Chúa của Ky-tô giáo),
1951. Diable và Dieu là hai khái
niệm tôn giáo đặc thù của ba tôn giáo lớn
trong Bible, Thánh Kinh. Dieu
biểu hiện Thiện-tuyệt-đối, Diable
biểu hiện Ác-tuyệt-đối. Trong vở kịch này
có hầu hết những quan điểm cơ bản của
L'Être et le Néant, nhưng trong hoàn
cảnh chiến tranh và cách mạng xã hội. Giải đáp
cho thân phận làm người trong hoàn cảnh ấy, tuy
không mâu thuẫn với giải đáp đó trong La
Nausée, khác hẳn về kích thước người.
Bối cảnh là thời kỳ Chiến tranh nông dân,
Guerre des paysans, thời phong kiến Ðức.
Nhân
vật tiêu biểu, có :
Tổng Giám Mục ,
xuất hiện đầu tiên trong kịch, thể hiện quyền
lực rất phàm tục, có quân đội, của Nhà Thờ
Thiên Chúa Giáo.
Bá tước Nossak ,
một lãnh chúa của giai cấp phong kiến.
Nasty ,
lãnh tụ 'công nhân' trong các thành thị.
Chủ ngân hàng Foucre ,
đại diện giai cấp tư sản đang lên.
Karl ,
lãnh tụ nông nô.
Catherine ,
tuy bị Goetz biến thành đĩ, hiểu
và yêu Goetz.
Hilda ,
một nhân vật nữ tuyệt vời.
Chúa
và Ác-Quỷ, không có mặt trên sân
khấu, ám ảnh cả vở kịch.
Heinrich
và Goetz, hai nhân vật chính, tiêu
biểu cho kiểu sống giả dối với chính mình.
Heinrich
là đứa con hoang, bâtard[69]
của Nhà Thờ : chàng không xuất thân từ
giai cấp phong kiến, xuất thân nông nô. Chàng là
kẻ phản bội giai cấp của mình, nhưng không tài
nào trở thành người khác trong giai cấp khác.
Chàng là linh mục của kẻ bần cùng. Trong
tư cách ấy chàng là kẻ phản bội quyền lợi của
Nhà Thờ. Ðây là con người vừa là
nông nô vừa không là nông nô, vừa
là linh mục vừa không là
linh mục.
Goetz ,
thủ lĩnh quân sự tài ba nhất thời đó, là đứa
con hoang của lãnh chúa Heidenstamm. Chàng
vừa là người quý tộc vừa
không là người quý tộc.
Cốt truyện.
Nhân cuộc tranh chấp giữa Tổng Giám Mục
với Conrad, anh ruột của
Goetz, lãnh chúa Heidenstamm,
Goetz phản anh, theo Tổng Giám Mục
để được thay anh làm lãnh chúa. Nhân chuyện ấy,
giai cấp tư sản trong thành phố Worms của
Tổng Giám Mục nổi loạn, cướp chính
quyền, bỏ tù những giáo chức. Goetz
mang quân vây thành phố Worms. Ai đã biết chàng
đều hiểu : chàng sẽ làm cỏ thành phố, không tha
một ai ngoài đám giáo chức (người của Tổng
Giám Mục) và đám tư sản (nguồn lợi nhuận
của Tổng Giám Mục, do đó
Tổng Giám Mục sẵn sàng tha tội phản
loạn, chỉ phạt tiền thôi).
Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết. Trong thành
phố, dân nghèo chết đói như rạ. Ðám tư sản không
dám bỏ tù Heinrich vì chàng là
linh mục của kẻ bần cùng. Nasty
cũng vậy. Heinrich đi an ủi nhân
dân, rửa tội cho người sắp chết. Nasty
muốn trốn ra khỏi thành phố, huy động nông dân
về giải phóng thành phố, cứu mạng dân nghèo. Ðể
dồn đám tư sản vào thế không thể đầu hàng, mở
cửa thành, Nasty ra lệnh khích
động quần chúng giết sạch đám giáo chức. Trước
khi chết, Giám Mục thành phố Worms
đưa cho Heinrich chìa khoá một
đường hầm, sai Heinrich trao lại
cho Goetz để chàng mang quân vào
cứu các giáo chức lúc đó đang bị vây.
Heinrich
mang chìa khoá ấy cho Goetz. Cùng
lúc, lính của Goetz tóm cổ
Nasty. Cuộc tranh luận giữa ba người
trước khi Goetz mang quân tàn sát
dân nghèo thành Worms tóm tắt cực hay vấn đề.
Heinrich
muốn làm điều thiện theo ý của Chúa
nhưng không sao làm được : là linh
mục của kẻ bần cùng thì bị kết án là phản bội
Nhà Thờ. Cứu các giáo chức thì bị kết án là
phản bội kẻ bần cùng. Làm gì thì làm, cũng vẫn
là anh con hoang, là
kẻ phản bội[70].
Nasty
cũng muốn làm điều thiện nhưng theo ý của
giai cấp bị áp bức, bóc lột. Chàng chủ
trương dùng bạo lực thay đổi xã hội, xây dựng
thiên đường ngay trên trái đất, sẵn sàng giết
người, bị treo cổ, nhưng cũng sẵn sàng lạy
Goetz tha mạng dân khốn khổ trong
thành Worms. Tuyệt !
Goetz
là kẻ muốn tự mình là mình, ngang
hàng với Chúa nhưng trong thế đối
lập, chỉ làm chuyện ác để chứng mình rằng
Chúa không có thực và, nếu có,
cũng bất lực, không có khả năng ngăn cản chàng
làm chuyện ác.
Nasty
nhổ vào mặt Heinrich. Goetz
cười đắc chí, ra lệnh tra tấn
Nasty (đại diện kẻ bần cùng) cho đến khi
Nasty chấp nhận thú tội với
Heinrich (linh mục của kẻ bần cùng) thì
treo cổ Nasty. Tuyệt !
Cuộc tranh luận lý thú này chấm dứt bằng một...
canh bạc. Goetz đánh cá với
Heinrich rằng nếu chàng thua, chàng sẽ
làm điều Thiện (Le Bien) và sẽ làm
được. Goetz gian lận để... thua.
Từ đó, chàng đi làm điều Thiện. Chàng
'cải cách ruộng đất', chia lãnh thổ Heidenstamm
cho nông nô, lãnh đạo họ xây dựng Vương quốc
của Chúa trên mảnh đất ấy.
Biết tin ấy, nông nô nổi loạn chống giai cấp
phong kiến, đòi được chia đất. Goetz
cấm con chiên của mình tham chiến, thà tử vì đạo
còn hơn giết người. Nông nô nổi loạn giết sạch
con chiên của Goetz vì tội phản
bội [giai cấp]. Các lãnh Chúa tàn
sát nông nô. Goetz rút lui vào một
xó với Hilda, tự hành hạ thể xác
mình để tiêu diệt phần ma quỷ trong mình, tìm
Chúa.
Tới ngày hẹn, Heinrich đến xử
Goetz. Goetz công nhận
đã thua cuộc : làm được việc Thiện hay
Ác đều tùy Chúa, không tùy
thuộc con người. Chàng chấp nhận cho
Heinrich hành hạ mình, than trách
Chúa đã im lặng, và chợt hiểu. Hãy
thưởng thức đoạn văn bất hủ ấy :
Goetz,
ngửng đầu lên.
- Linh mục, mày có lý, mọi chuyện đều do tao bày
đặt. Một mình tao. Tao đã lạy lục, xin một dấu
hiệu, tao đã gửi thông điệp tới tận Trời : không
ai trả lời. Ông trời không biết đến cả tên tao.
Từng giây, từng phút, tao tự hỏi mình có thể
là
gì dưới cặp mắt của Chúa. Bây giờ tao đã biết
câu trả lời : không là gì cả. Chúa không thấy
tao, không nghe thấy tiếng kêu gọi của tao,
không biết đến tao. Mày thấy khoảng trống trên
đầu chúng ta không ? Chúa đấy. Mày thấy lỗ hổng
trong cánh cửa kia không ? Chúa đấy. Sự im lặng,
chính là Chúa. Sự vắng mặt, chính là Chúa, nỗi
cô đơn của con người. Chỉ còn có tao thôi : một
mình, tao đã quyết định gì là Ác ; một mình, tao
sáng tạo gì là Thiện. Chính tao đã gian dối,
tao, con người đã từng làm ra những chuyện mầu
nhiệm, tao, con người đang tự lên án mình hôm
nay, chỉ có tao mới có khả năng tha tội cho
tao ; tao, con người. Nếu Chúa có thực, con
người là hư vô ; nếu người có thực... Mày chạy
đi đâu vậy ?
Tới đây, Heinrich bỏ chạy vì đã
hiểu Goetz muốn nói gì và không
muốn nghe.
Nếu ta chịu khó hiểu rằng Chúa ở
đây không đơn thuần là Chúa của
Ky-tô giáo mà là mọi niềm tin đã bị thần thánh
hoá, thiêng liêng hoá như Sự-thật
hay Quy-luật Khách-quan của Lịch-sử
chẳng hạn, rồi đặt lên trên đầu con người để tự
nó trói buộc đời nó, biến đời nó thành định mệnh
thì ta cảm nhận được ngay tầm vóc tư tưởng của
vở kịch. Hiểu như thế khớp với triết lý của
Sartre cũng như với tác phẩm : tất cả các nhân
vật đều tự nhận là đầy tớ của Chúa
để hành Thiện tuy với nội dung trái ngược nhau.
Trừ Hilda. Vả chăng, nếu Sartre có giải thích
đam mê tôn giáo như một kích thước "tự nhiên"
của con người trong triết lý của mình, chàng
không bao giờ tranh luận với các tôn giáo.
Nhờ sự giác ngộ ấy, Goetz mới yêu
được Hilda một cách trung thực :
Goetz,
[ôm Hilda].
Không còn ai chứng giám chúng ta nữa, chỉ một
mình anh thấy tóc em, trán em. Từ khi nó [Chúa]
đã chết, sao em
thật
quá. Hãy nhìn anh, đừng bao giờ ngừng nhìn anh,
dù chỉ một khắc ; thế giới đã mù loà ; nếu em
ngoảnh mặt đi, anh sợ sẽ tan mình trong hư vô.
Kết thúc vở kịch, Goetz dấn thân,
nhận chỉ huy quân đội nông nô trong tư thế :
Anh sẽ tiếp tục cô đơn đứng dưới bầu trời trống
rỗng kia, vì anh không có cách nào khác để ở với
mọi người. Cuộc chiến này phải tiến hành, anh sẽ
tiến hành nó.
Kết luận này không mâu thuẫn với L'Être et
le Néant, nhưng không chỉ thể hiện
L'Être et le Néant nữa. Nó tiêu biểu
cho tư tưởng và hành động của Sartre trong giai
đoạn 2 đời chàng.
Về vở kịch này, Sartre nói và Beauvoir giải
thích :
Tôi đã khiến Goetz làm điều tôi không làm được
[có nghĩa là giải quyết mâu thuẫn giữa con người
trí thức và con người hành động][71].
Có một điều đáng chú ý trong vở kịch này. Ðây là
tác phẩm văn chương duy nhất của Sartre trong đó
có một nhân vật trung thực, Hilda.
Nhân vật 'đẹp' duy nhất trong văn chương của
Sartre là một người đàn bà.
Hè hè, triết gia...
Trong giai đoạn này có vở kịch lừng danh,
Les mains sales, Những bàn tay bẩn.
Thiên hạ, tả và hữu, hiểu nhầm nó tới mức Sartre
đã phải cấm trình diễn nó.
Nội dung cuộc đời dấn thân của Sartre.
Chắc không cần nói dông dài. Ðọc tiểu sử chàng
trong bất cứ tiếng nào, ắt có đủ. Vậy chỉ xin
nêu vài đặc điểm.
Thế đứng .
Sartre luôn luôn giữ thế đứng độc lập, tự chủ,
không đại diện bất cứ ai ngoài chính mình. Tùy
lúc, tùy chuyện, chàng liên kết với lực lượng
chính trị này hay lực lượng chính trị kia, nhưng
không gia nhập một đảng phái, một phong trào
nào. Về mặt tư tưởng, chàng luôn luôn khẳng định
tư tưởng của chính mình. Ngay lúc chàng tìm cách
liên kết với phong trào cộng sản, chàng vẫn đăng
Matérialisme et Révolution,
Chủ nghĩa duy vật và Cách mạng, 1946,
một tiểu luận phê phán chủ nghĩa duy vật biện
chứng và các trí thức cộng sản giáo điều Pháp.
Chàng cũng vẫn nghĩ :
La politique du
communisme stalinien est incompatible avec
l'exercice honnête du métier littéraire[72],
Ðường lối chính trị của chủ nghĩa cộng sản
kiểu Staline xung khắc với hành nghề viết văn
một cách lương thiện, 1947.
Có lẽ thế đứng này đã giúp không ít trí thức
Pháp và trên thế giới không rớt từ tả khuynh
sang hữu khuynh hoặc ngược lại. Nhận định của
tôi, không khách quan gì cả.[1]
Ðối tượng ủng hộ .
Sartre luôn luôn đứng về phía kẻ yếu, kẻ bị đàn
áp, ở bất cứ đâu. Thí dụ đầy rẫy. Riêng với Việt
Nam, chắc nhiều người còn nhớ. Trong suốt thời
chiến Sartre ủng hộ cách mạng. Nhưng năm 1979,
lần đầu tiên chàng chấp nhận công khai đến điện
Élysée yêu cầu tổng thống Giscard d'Estaing tăng
cường giúp đỡ thuyền-nhân Việt Nam.
Hành động, triết lý và văn chương.
Luôn luôn thống nhất với nhau, văn chương mở
đường cho triết lý hay hiện sinh hoá
triết lý dưới dạng nghệ thuật, triết lý soi sáng
văn chương, hành động đưa triết lý vào đời, thôi
thúc tư duy triết học, sáng tác nghệ thuật.
Nội dung triết học.
Chủ yếu là cuộc đương đầu với chủ nghĩa Marx
(Marxisme). Sau khi chấm dứt giai đoạn liên hiệp
với phong trào cộng sản thế giới, năm 1958,
trong thời gian rất ngắn, Sartre viết quyển
Critique de la Raison Dialectique,
Phê phán lý trí biện chứng, 'xong'
trong năm 1959 ! Quyển đầu, gần 900 trang, đăng
ngay năm đó. Quyển 2, khoảng 500 trang, bỏ dở,
đăng năm 1985, 5 năm sau khi Sartre chết. Trong
tác phẩm này, Sartre không tranh luận với đồ đệ
của Marx nữa, tranh luận thẳng với Marx. Chàng
nêu rõ những điều chàng đồng ý với Marx, những
điều chàng khác ý. Chàng giải thích vì sao cái
'triết lý không thể vượt qua trong thời đại
chúng ta' đã chựng lại.
Vì tác phẩm bị bỏ dở, không có kết luận, xin
miễn bàn ở đây, sẽ rơi vào những chi tiết quá kỹ
thuật của triết học.
Một điều đáng ghi nhớ : Sartre cho rằng thời đại
ấy là thời đại của cách mạng không thể thực
hiện được, le temps de la révolution
impossible, trong nghĩa : nhu cầu cách mạng
thì có, ở khắp nơi, nhưng lực lượng thực sự
cách mạng thì không vì tư tưởng bế tắc,
vì tương quan lực lượng trong chiến tranh lạnh,
v.v.
III/
Giai đoạn 3, từ 1968 tới chết, năm 1980.
Cuộc bùng nổ của xã hội Pháp năm 1968 bất ngờ
với mọi người kể cả Sartre. Một cuộc động đất xã
hội, văn hoá. 10 triệu người đình công, nước
Pháp có lúc tê liệt hoàn toàn, De Gaulle phải
chạy qua Ðức cầu cứu Massu, người chỉ huy quân
đội Pháp ở Ðức, rồi mới dám chống lại. Ảnh hưởng
của nó lâu dài. Ðặc điểm lớn nhất : không do
Ðảng cộng sản Pháp lãnh đạo. Hoàn toàn tự phát !
Trong giới sinh viên cũng như trong giới lao
động làm thuê.
Dĩ nhiên Sartre nhập cuộc, đứng về phía sinh
viên, công nhân, phụ nữ... Dĩ nhiên, chàng ủng
hộ những phong trào cực tả. Nhưng tư tưởng của
Sartre, lúc ấy, không còn ảnh hưởng quyết định.
Các phong trào sinh viên chàng ủng hộ, bảo vệ,
dùng tên tuổi chàng để hoạt động nhưng có 'tư
tưởng' riêng. Trong thời gian ấy, Sartre đã làm
bia đỡ đạn cho nhiều tờ báo : chính quyền bỏ tù
giám đốc tờ báo nào, Sartre đứng ra làm giám đốc
tờ báo ấy để những người chủ trương nó phát biểu
lập trường, dù Sartre không tán thành lập trường
đó.
De Gaulle đã từng cản Michel Debré bỏ tù Sartre
mà : On n'arrête pas Voltaire ! Ai lại bỏ tù
Voltaire ! Món này đặc thù PhuLăngXa. Nhiều
chính khách Pháp thấm đậm văn hoá. Có lúc Sartre
làm giám đốc của hơn chục tờ báo, có khi không
biết gì về điều ấy !
Trong cơn bão tố ấy, Sartre cố tìm hiểu đằng sau
cuộc động đất này có tư tưởng nào mới có thể
giải quyết bế tắc tư tưởng cách mạng không.
Sau Tháng năm 1968, De Gaulle thỏa hiệp với Ðảng
cộng sản Pháp. Hiệp ước Matignon giữa Chính phủ
và các công đoàn thoả mãn những yêu sách của CGT
(Tổng công đoàn lao động, do Ðảng cộng sản Pháp
lãnh đạo) dẹp cuộc nổi loạn tự phát của công
nhân. De Gaulle giải tán quốc hội, tổ chức bầu
cử và thắng đậm : lần đầu tiên, đảng của De
Gaulle chiếm đa số tuyệt đối trong quốc hội.
Ðiều đó cũng đủ nói : nhân dân Pháp không chấp
nhận xã hội cũ nhưng cũng không sẵn sàng nhẩy
vào một tình thế cách mạng hỗn loạn. Chính quyền
tư sản thông minh, liên tục cải cách mọi lĩnh
vực, biến xã hội Pháp thành một xã hội cởi mở
hơn, dễ thở hơn, trong đó đa số có đất sống, có
chân đứng. Ðây là thời kỳ phát triển cực mạnh,
cực nhanh của nước Pháp. Ai đã từng so sánh
Paris hay hệ thống xa lộ của Pháp năm 1968 với
Paris và hệ thống xa lộ ấy 10 năm sau cũng thấy.
Song song, khối xã hội chủ nghĩa suy tàn, tự sụp
đổ, kéo theo nó các đảng cộng sản Tây Âu đã gắn
định mệnh mình với đường lối chính trị của Liên
Xô.
Trong suốt quá trình này Sartre ủng hộ các nhóm
cực tả. Nhưng tác dụng chính trị giới hạn.
Triết, không có tác phẩm đáng kể. Văn, có bộ
sách về Flaubert.
Cuối đời[73],
Sartre mơ ước nhất là sẽ có người vượt
tác phẩm của mình, dựa vào nó để tiến xa hơn.
Chàng nhận định rằng, cho tới lúc đó, chưa ai
làm chuyện đó. Những tác phẩm chàng mong người
đời sau vượt là :
- Triết : Critique de la raison
dialectique, Phê phán lý trí biện chứng.
- Tiểu luận : Saint Gênet, comédien et
martyr, Thánh Gênet, kịch sĩ tử vì đạo.
- Kịch : Le Diable et le Bon Dieu, Ác Quỷ
và Thượng Ðế (Chúa).
- Tiểu thuyết : La Nausée, Buồn nôn.
- Văn : bộ Situation, Thế, vì đó
'là phần tuy không là triết lý nhưng gần triết
lý nhất : vừa phê phán vừa chính trị[74]'.
Ở nơi khác, chàng đã đánh giá bộ sách này như
sau : la philosophie en action, en prise sur
l’événement, sous une forme littéraire (triết lý
đang hành động, đang đương đầu với biến cố, dưới
sắc thái văn chương).
Ðiều duy nhất chàng thực sự thích làm là ngồi
trước bàn, viết, nhất là triết.
Năm 1980, Sartre vào nhà thương, lúc đầu tưởng
bệnh nhẹ, sau trở thành trầm trọng, da thịt chết
dần, loang lở tứ tung. Trước khi chết, chàng lo
lắng hỏi Simone de Beauvoir : chàng còn đủ tiền
thanh toán chi phí chôn cất không ? Tuy chẳng ai
kêu gọi, tổ chức, hơn 50.000 người tự động đi
đưa đám. Chưa nhà văn, triết gia Pháp nào được
vinh dự ấy. Từ cửa sổ một bàn giấy trong sở, tôi
nhìn đoàn người bước đi trên đại lộ
Montparnasse. Vợ chồng, người yêu nắm tay nhau,
cha mẹ dắt, bồng bế con trên vai, trên lưng,
dưới nách. Họ tươi cười trò chuyện hoặc lặng
thinh, không ai khóc, không ai nghiêm trọng, bi
ai. Ðây không phải đám tang, đây là tiễn đưa một
người bạn, tuy ai cũng biết người ấy sẽ không
bao giờ trở lại. Tôi không đưa đám Sartre. Tôi
đứng đó nhìn, hồi tưởng những điều chàng đã cho
tôi. Chàng đi đâu thì đi. Chàng vẫn ở trong tôi.
Tôi là một phần sống của chàng.
Hôm nay, tôi không còn suy luận trong môi trường
nhân sinh quan của chàng. Tôi đã từng phê phán
nó trong một quyển sách của tôi. Làm thế, với
tôi, là trả món nợ đời của tôi với Sartre.
Nhưng, khi cần, tôi vẫn không ngần ngại viết :
Sự thật đau nhất của con người là nó không
có
sự thật, không
là
sự thật. Không
có
chân lý nào, dù tiềm tàng hay ẩn nấp, đằng sau
tim sọ của nó. Tâm hồn nó trong veo, trong suốt,
trong tới mức khả nghi. Tâm hồn ấy lại không thể
tiếp cận bất cứ một hiện thực nào mà không đồng
thời sáng tạo một hình thù, mầu sắc, âm hưởng,
cảm giác, không sáng tạo hay tái tạo cả một thế
giới giá trị, khiến hiện thực kia đượm nhân tình[75].
Ðó là tư tưởng của Sartre diễn Nôm.
Kết thúc bài này, xin phép Hợp Lưu
cho tôi thổ lộ một khát khao nẩy sinh trong quá
trình tôi viết nó : 'khích' độc giả đọc tận gốc
tác phẩm của Sartre. Biết đâu, sẽ có người có
nhu cầu dịch hay trình bầy lại một cách trung
thực, trong một ngôn ngữ mà người Ziao Chỉ hiểu
được, để bà con hiểu, thậm chí chia sẻ một đam
mê làm người cực đẹp của thế kỷ 20. Dĩ nhiên,
không để làm học trò hoặc thầy chấm điểm Sartre.
Bản thân chàng ghét hai thái độ đó. Ta chỉ có
thể viết về Sartre một cách đáng chú ý khi ta
yêu Sartre hơn mê ta. Nhưng đã yêu Sartre, không
thể làm học trò hay thầy chấm điểm chàng. Như
chàng mong đợi, kêu gọi lúc cuối đời, dù chỉ ở
mức nhỏ nhoi, ta nên cố gắng vượt chàng
để làm chính mình, để làm
người.
Phan Huy Ðường
10/2003
Những thông tin, đoạn trích trong bài này rút ra
từ những tài liệu sau, nhà xuất bản
Gallimard, Pháp : L'Être et le Néant,
1943 ; Critique de la Raison dialectique (tome
I), 1985 ; Situation I đến X,
1973-1976 ; bộ hồi ký của Simone de Beauvoir
thuật lại cuộc đời của Sartre từ ngày họ gặp
nhau tới ngày Sartre chết và Jean-Paul
Sartre, Oeuvres romanesques, 1982.
Sau đây, chỉ nhắc vắn tắt thôi. Có nhiều điều
trình bầy ở đây dựa vào trí nhớ không mấy chính
xác về chi tiết của tôi. Những điểm gì quan
trọng, tôi cố tìm lại trong đống sách đồ sộ kia.
Thời gian nộp bài quá ngắn để có thể làm hơn.
Mong độc giả tha thứ. Cũng không quan trọng lắm.
Tôi không có ý viết một bài khảo luận theo kiểu
kinh viện, chỉ muốn chia sẻ một cuộc gặp gỡ
thiết thân với tôi.
[2]
Nhà xuất bản Seuil, Paris, France.
[3]
Situation X, trang 190.
[4]
Descartes, Oeuvres, Lettres, Descartes,
Tác phẩm, Thư. La Pléiade,
Gallimard, Pháp, 1953.
[5]
Do Marx trích và bình luận trong Le
Capital (Tư bản luận), Tome I, trang 73.
[6]
Situation X.
[7]
Sartre viết rất nhiều bài ngắn trong nhiều lĩnh
vực : phê bình, tiểu luận, bút chiến, đề tựa
sách, v.v. Nhà xuất bản Gallimard gom lại theo
đề tài, đăng thành một bộ sách với tựa chung
Situation 1,2,3... Từ Situation
liên quan tới khái niệm triết của Sartre trong
l'Être et le Néant : liberté en
situation, tự do trong và mặc dù hoàn cảnh,
với nghĩa sau.
Không có Tự Do tuyệt đối.
Con người luôn luôn và chỉ có thể tự do đối
với một hoàn cảnh cụ thể nào đó. Nhưng,
ngược lại, do 'bản chất' người của nó, nó không
thể không tự do. Ðây là một nội dung cơ bản
trong cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Sartre và
Camus (Lettre à Camus, Thư gửi Camus,
Situation IV, trang 90).
[8]
Situation IV, trang 90.
[9]
Situation IV, trang 111.
[10]
Situation IV, trang 111.
[11]
Quan điểm này, tuy không mâu thuẫn với triết lý
của L'Être et le Néant, không có
trong L'Être et le Néant.
[12]
Trong ngôn ngữ của Sartre, nhân học
(anthropologie) phải là một môn tìm hiểu con
người một cách toàn diện và tổng hợp, kể cả
trong chiều kích lịch sử về mọi mặt của nó.
[13]
Khái niệm đặc thù của Sartre : hiểu người khác
từ bên trong của nó, trên cơ sở dự định
(projet) của chính nó. Dự định cũng
là một khái niệm đặc thù của Sartre gắn liền với
triết lý của L'Être et le Néant !
Thôi, xin độc giả kiên nhẫn một tí. Vào phần
triết lý, tôi nói luôn một thể cho dễ hiểu.
[14]
Critique de la Raison dialectique,
trang 14.
[15]
Jean-Paul Sartre, Oeuvres romanesques,
trang LIX.
[16]
Jean-Paul Sartre, Oeuvres romanesques,
LXI.
[17]
Jean-Paul Sartre, Oeuvres romanesques,
LXII
[18]
Critique de la Raison dialectique,
trang 31.
[19]
Critique de la Raison dialectique,
ngay chương đầu :
Marxisme et existentialisme.
[20]
Jean-Paul Sartre, Oeuvres romanesques,
trang L.
[21]
Tất nhiên, nẩy ra ngay vấn đề muôn đời : người
ta chỉ có thể định nghĩa một từ bằng một hay
nhiều từ khác và, cứ thế, mãn đời cũng không
định nghĩa được bất cứ từ nào cho đến cùng. Ðộc
giả muốn biết suy luận của tôi về vấn đề này có
thể tham khảo trong quyển Penser librement.
[22]
Ludwig Feuerbach, Engels, Éditions
Sociales, Paris 1966.
[23]
Kiểu nói của tôi, không phải trích Sartre.
Amener à l'existence.
[24]
Jean-Paul Sartre, Oeuvres romanesques,
trang LI.
[25]
Réalité, trong nghĩa rộng. Không chỉ có
thế giới vật chất, có cả hiện tượng người, hiện
tượng tư duy. Nhiều tác giả, kể cả Sartre, để
cho rõ nghĩa, dùng khái niệm réalité
humaine : thực thể người.
[26]
La force de l'âge, Simone de
Beauvoir, trang 386.
[27]
Situation X, trang 176.
[28]
Jean-Paul Sartre, Oeuvres romanesques,
trang LVII.
[29]
Không phải theo tôi đâu nhé. Hiện nay, tôi có
quan điểm khác, đã trình bầy trong Penser
librement. Theo L'Être et le Néant.
[30]
Tái bản dưới tựa Introduction à la lecture
de Hegel, Gallimard 1979. Quyển sách này
rất dễ hiểu.
[31]
Trong sự phát triển thông thường của ngôn ngữ,
người ta thường danh từ hoá động từ, biến một
quan hệ sống thành một kiến thức chết. Sartre
làm ngược lại. [Ý của tôi, không phải trích
Sartre]
[32]
Descartes, Oeuvres, Lettres, La
Pléiade, Pháp, 1953.
[33]
Ở đây chỉ nêu vài nét chính liên quan tới vấn
đề, không đi vào chi tiết. Ði vào chi tiết, tư
tưởng của Descartes đặt ra nhiều câu hỏi thú vị,
còn rất thời sự.
[34]
Hegel đã từng nhận định : Descartes là người đầu
tiên đặt Tôi vào trung tâm của
triết lý với tư cách là chủ thể của tư duy.
Sartre đề cao cống hiến của Descartes trong ý
này : con người là tự do. La liberté
cartésienne, Situation I.
[35]
Nxb Odile Jacob, 2001.
[36]
Thế mới là một nhà tư tưởng lớn : có khả
năng phát hiện bế tắc trong tư tưởng của
mình.
[37]
L'esprit et la matière,
Tinh thần và vật chất, Seuil 1958.
[38]
Einstein cũng nêu ý đó : điều khó hiểu nhất
là khả năng hiểu vũ trụ của con người.
[39]
Lenine có tranh luận với Mach trong
Matérialisme et empirio-criticisme.
[40]
Ý này đã có mầm trong tác phẩm của
Descartes.
[41]
Khái niệm Không gian và Thời gian của
Kant cở bản vẫn là khái niệm phổ cập
trong văn hoá Tây Âu ngày nay. Thực tế, Kant
đã khiêng quan điểm của Newton vào triết lý
của mình. Kant có kiến thức vững vàng trong
nhiều nghành khoa học thời ông : toán, vật
lý, v.v. Những nhà vật lý hiện đại có quan
điểm rất khác về Không gian -Thời gian.
Trong bài Le temps, son cours et sa
flèche, Université de tous les
savoirs, Editions Odile Jacob, 2001,
nhà vật lý Étienne Klein viết về vấn đề này
như sau : Thí dụ, vật lý không tìm cách
giải đáp vấn đề 'bản chất' của thời gian
[...] Nó tìm cách tốt nhất để biểu hiện thời
gian, và đó là một vấn đề hoàn toàn khác.
Thực ra, những nhà vật lý đã biến thời gian
thành một khái niệm hữu dụng (concept
opératoire) tuy họ không định nghĩa được
nó một cách chính xác.
Quả nhiên, như Engels đã từng nhận xét,
trong lĩnh vực chuyên môn của họ, những nhà
khoa học luôn luôn ứng xử một cách rất biện
chứng.
[42]
Ludwig Feuerbach, Engels,
Éditions Sociales, Paris 1966.
[43]
Engels ghẹo Hegel như sau : […] Ý niệm tuyệt
đối - cũng chỉ tuyệt đối vì ông tuyệt đối
không có gì để nói với chúng ta về nó - […].
Ludwig Feuerbach, Engels,
Éditions Sociales, Paris 1966.
[44]
Tiểu tựa của L'Être et le Néant
là : Essai d'ontologie
phénoménologique, Tiểu luận về bản thể luận
dựa trên hiện tượng luận. Hiện
tượng luận là học thuyết của
Husserl. Mới viết tiểu luận thôi mà
đã nện độc giả hơn 700 búa tạ ! Sartre mà
viết đại luận, chết toi độc giả !
[45]
Dịch văn đã khốn khổ, dịch triết càng khốn
nạn…
[46]
L'Être et le Néant,
trang 34
[47]
L'Être et le Néant, trang 33,
34
[48]
l'être est ce qu'il est là một luận
điểm triết. il s'épuise à l'être là…
thơ ! Nó đã là nó với định nghĩa của Sartre
thì làm quái gì có khả năng 'kiệt sức' ! Văn
phong của Sartre trong L'Être et le
Néant có nhiều câu kiểu này khiến
nhiều độc giả mê hồn.
[49]
L'Être et le Néant,
trang 44.
[50]
De trop, khái niệm đặc thù Sartre,
nội dung triết của một chương nổi tiếng
trong La Nausée, chương Sartre
tả một cái cây khủng khiếp, rễ mọc tràn lan,
bao phủ tất cả, bóp nghẹt không gian. Sartre
gửi cho Simone de Beauvoir một chiếc là khô,
hỏi : lá cây gì vậy ?
Hè hè, triết gia...
[51]
L'Être et le Néant, trang
46,47
[52]
L'Être et le Néant, trang
58
[53]
L'Être et le Néant, trang
58.
[54]
L'Être et le Néant, trang
59.
[55]
L'Être et le Néant, trang
61.
[56]
L'Être et le Néant, trang
133.
[57]
Khái niệm đặc thù của Sartre. Khá rắc rối.
Ðại khái : nó vừa là trung tâm quy nạp mọi
vật thể trong thế giới vừa là chính ta,
thực-thể-vì-mình, nó là nhịp cầu giữa ta
và thế giới, giữa ta và tha-nhân.
[58]
L'Être et le Néant, trang
418-419
[59]
L'Être et le Néant, trang
430
[60]
Dịch như vậy có vẻ không đồng nhất, nhưng
đúng nội dung và dễ hiểu : một hình thái cơ
bản của sự nghiệm sinh là sự có
mặt với chính mình (présence à soi) và sự có
mặt của tha-nhân (présence d'autrui).
[61]
L'Être et le Néant, trang
430
[62]
Vì thế, Sartre nghĩ : mình không thể yêu
chính mình được. Giời đất ơi, thế thì chết
người ta !
[63]
L'Être et le Néant, trang 52.
[64]
Quan điểm của tôi, không phải của Sartre,
tuy không mâu thuẫn với Sartre.
[65]
Các nàng ơi, hãy thương lấy chúng tôi bao
giờ tới sáng thì… thôi, đừng bao giờ bắt
chúng tôi phải luôn luôn thành thực
(sincère), luôn luôn nói sự thực
(vérité). Không thì Ðịa ngục, chính
là tha-nhân đấy.
[66]
Không nên hiểu như một cái bánh chia 3 ! Nên
hiểu như ba kích thước vừa thống nhất với
nhau vừa biệt lập với nhau. Sartre dùng khái
niệm les régions de l'être, những
vùng của thực-thể.
[67]
Critique de la Raison dialectique,
trang 28.
[68]
Situation X.
[69]
Khái niệm đặc thù của Sartre, như
Hữu-thể-vì-mình là con hoang của
Hữu-thể-tự-tại, một cách văn chương.
[70]
Phản bội cũng là một khái niệm đặc
thù của Sartre, nghĩa tương đương với con
hoang nhưng trong khuôn khổ của hành
động.
[71]
Jean-Paul Sartre, Oeuvres romanesques,
LXX.
[72]
Jean-Paul Sartre, Oeuvres romanesques,
LXIV.
[73]
Entretiens sur moi-même,
Situation X.
[74]
Entretiens sur moi-même,
Situation X, trang 155.
[75]
Vẫy gọi nhau làm người, bài
Niềm tin khủng khiếp.
[1]Lúc
Sartre chết, một người bạn hỏi Michel
Foucault có tính đi đưa đám không.
Foucault trả lời : không, tao đầu có nợ
nần gì nó. Bạn : với tư cách triết gia
thì không, nhưng với tư cách trí thức
trong xã hội này thì chúng ta đều có nợ
với nó. Foucault đồng ý và đi đưa đám
Sartre.
Trich từ Ăn mày Văn Chương |