Những bài cùng tác giả
Gabriel José García MARQUEZ
(6/3/1928 - ) Văn Hào Người Colombia, lãnh Giải Thưởng Nobel Văn Chương Năm 1982
và Tác Phẩm “100 NĂM CÔ ĐƠN”
1/ Cuộc đời của Văn Hào García Márquez.
Gabriel José García Márquez còn có tên là Gabo, là một nhà báo, nhà văn viết
tiểu thuyết và cũng là một nhà hoạt động chính trị. Ông García Márquez chào
đời vào ngày 6/3/1928 trong một gia đình nghèo, tại thị xã Aracataca trong
tỉnh Magdalena, thuộc nước Colombia, nhưng ông sinh sống phần lớn cuộc đời
tại thành phố Mexico City, nước Mễ Tây Cơ, và tại châu Âu. Giới văn học coi
ông là người đứng đầu phong trào văn chương hiện thực và ma thuật (magical
realism movement) bởi vì phần lớn các tác phẩm của ông thuộc về thể loại
này.
Ông García Márquez theo học ngành Luật Khoa và Báo Chí tại đại học Quốc Gia
của thành phố Bogota và tại đại học Cartagena. Vào năm 1948, ông bắt đầu vào
nghề nhà báo, làm việc lần lượt tại các thành phố Cartagena, Barranquilla và
Bogota, rồi trong thập niên 1950, trở nên thông tín viên nước ngoài của tờ
nhật báo El Espectador. Ông hoạt động tại Rome và Paris, trở lại Colombia
rồi qua Caracas vào năm 1958. Từ năm 1959 tới năm 1961, ông García Márquez
là phóng viên của hãng thông tấn La Prensa của nước Cuba, tại Colombia,
Havana và thành phố New York.
Qua thập niên 1960, ông là người viết kịch bản (screenwriter), nhà báo và
nhà xuất bản tại thành phố Mexico City. Ông dọn qua Barcelona vào năm 1973
rồi trở lại Mexico vào cuối thập niên 1970. Vì chiều hướng chính trị khuynh
tả, ông García Márquez đã không được phép di chuyển dễ dàng qua nước Hoa Kỳ
và trong xứ Colombia của ông.
Vào cuối thập niên 1940, ông García Márquez bắt đầu viết các truyện ngắn,
rồi vào năm 1955, cho xuất bản tác phẩm đầu tiên có tên là "Trận Bão Lá"
(Leaf Storm = La hojarasca). Trong cuốn truyện này, đã xuất hiện ngôi làng
hư cấu Macondo (fictional village) và tác giả đã dùng tới thể văn hiện thực
với các nhân vật có tính huyền ảo hay ma thuật.
Một tác phẩm đầu tay khác của tác giả García Márquez là cuốn tiểu thuyết
"Câu Chuyện của một Thủy Thủ bị đắm tầu" (The Story of a Shipwrecked Sailor
= refigerador roto, 1970), kể về một tầu hải quân Colombia buôn lậu, nên đã
gây ra tranh luận và tác giả bị coi là một người không được chấp nhận
(persona non grata) đối với chính quyền của Tướng Gustavo Rojas Pinilla.
Các bài viết từ năm 1958 trên tạp chí Mito của xứ Colombia được tác giả
García Márquez in thành tác phẩm vào năm 1962 rồi qua năm 1968, được dịch
sang tiếng Anh với tên là "Không Ai viết Thư cho ông Đại Tá" (No One Writes
to the Colonel = El coronel no tiene quien le escriba, 1968), kể lại câu
chuyện của một cựu chiến binh lớn tuổi mà các thành tích chiến đấu cho quê
hương đã không được ai biết tới. Cũng vào năm 1962, García Márquez còn cho
xuất hiện tác phẩm "Vào Giờ Độc Ác" (In Evil Hour = La malahora, 1962), đây
là câu chuyện liên quan tới sự đàn áp chính trị tại xứ Macondo
García Márquez đạt được danh vọng quốc tế vào năm 1967 khi ông sinh sống tại
xứ Mexico và cho xuất bản tác phẩm rất danh tiếng "100 Năm Cô Đơn" (One
Hundred Years of Solitude = Cien ano de soledad, 1967). Cuốn tiểu thuyết này
kể lại câu chuyện của gia đình Buendia sinh sống trong thị xã cô đơn Macondo
với các khám phá về gia đình này và về thị xã, đều mang tính bi thương
(tragic), và tác giả García Márquez đã mô tả các biến cố dưới hình thức của
thứ truyện khó tin. Cuốn tiểu thuyết này được diễn tả như là biểu tượng lịch
sử của phần đất Mỹ Châu La Tinh (Latin America), được kể lại bằng các nhân
vật và địa phương bí ẩn, đây còn là bản văn anh hùng ca kể về một gia đình
lớn, phức tạp, trải dài qua nhiều thập niên và bao gồm bên trong các truyền
thuyết và kinh nghiệm của con người, nên đã khiến cho người đọc phải suy
nghĩ theo triết học về bản chất của thời gian và sự cô đơn. Giá trị của tác
phẩm này không chỉ nằm trong cách dùng thể văn mới mẻ, hiện thực và ma thuật
(magical realism), mà còn hàm chứa vẻ đẹp của ngôn ngữ Tây Ban Nha. Thể văn
cô đọng, hoàn cảnh phức tạp của cốt truyện đã làm cho nhiều người phải nhớ
tới Đại Văn Hào William Faulkner của Hoa Kỳ.
Sau khi phát hành, tác phẩm "100 Năm Cô Đơn" đã bán được hơn 10 triệu ấn bản
và nhờ sáng tác xuất sắc này, nhà văn García Márquez đã lãnh Phần Thưởng
Romulo Gallegos vào năm 1972 và Giải Thưởng Nobel Văn Chương lừng danh vào
năm 1982.
García Márquez cũng viết cùng với nhà văn Mario Kargas Llosa một bộ sách phê
bình văn học có tên là "La novela en America Latina" (1968). Hai tuyển tập
các truyện ngắn của ông, viết xong năm 1972 và dịch sang tiếng Anh năm 1978,
là cuốn "Câu Chuyện buồn và khó tin của cô Erendira ngây thơ và bà nội không
có trái tim của cô ta" (The Incredible and Sad Tale of Innocent Eréndia and
her heartless Grandmother = La increible y triste historia de la cándida
Eréndira y de su abuela desalmada, 1978), cuốn thứ hai tên là "Con Mắt của
con Chó Xanh" (Eyes of a Blue Dog = Ojos de perro azul).
Các năm sau, García Márquez xuất bản cuốn tiểu thuyết "Mùa Thu của viên Tộc
Trưởng" (The Autumn of the Patriarch = El otono del patriarca, 1975), đây là
các câu chuyện châm biếm, ám chỉ các nhà độc tài của các xứ Mỹ Châu La Tinh.
Một số sáng tác của García Márquez có thể xếp vào loại vừa hư cấu (fiction),
vừa không hư cấu (non-fiction), đáng kể nhất là tác phẩm "Biên Niên Sử của
một cái Chết đã được báo trước" (Chronicle of a Death Foretold = Cronica de
una muerte anunciada, 1981), cứu xét về các biến cố chung quanh một vụ sát
nhân, hay câu chuyện trả thù giết người tại một tỉnh trong vùng Trung Mỹ.
Tác phẩm "Tình Yêu vào Thời Thổ Tả" (Love in the Time of Cholera = El amor
en los tiempos del cólera, 1985) là câu chuyện dùng tới các mẩu chuyện tỏ
tình của cha mẹ tác giả, đây là một cách suy nghĩ về tính thủy chung trong
một tình yêu lãng mạn, và còn nhiều sáng tác khác trong đó có các nhân vật,
địa điểm, sự kiện... đã xẩy ra và được nhắc lại, tất cả đã tạo nên một thứ
tiểu vũ trụ của García Márquez (the García Márquez universe), bởi vì tác giả
này cũng đã nghiên cứu, mô tả về cảnh già, cõi chết và các đám tang... Tác
giả đã dùng trực giác một cách khéo léo để nhận thức về sự thoái hóa của đời
người, trong đó sức mạnh của đời sống và của tình yêu đã chế ngự mà mọi
người không bao giờ hiểu nổi.
Tác phẩm xuất hiện vào năm 1989 là cuốn "Viên Tướng trong Mê Cung" (The
General in his Labyrinth = El general en su laberinto), một truyện hư cấu ám
chỉ những tháng cuối cùng của vị anh hùng đã giải phóng vùng Mỹ Châu La Tinh
là ông Simon Bolivar.
Vào năm 1999, Văn Hào García Márquez được bác sĩ chẩn đoán là mắc bệnh ung
thư bạch huyết (lymphatic cancer), sự việc này đã khiến ông bắt đầu viết hồi
ký. Qua năm 2000, một tờ nhật báo của xứ Peru đã loan tin sai là ông Garcia
Marquez qua đời.
Năm 2002, García Márquez xuất bản tập đầu tiên trong bộ sách 3 cuốn tự
truyện (autobiography) với tên là "Sống để Kể Chuyện" (Living to Tell the
Tale = Vivir para contarla). Đây là cuốn sách bán chạy nhất (a bestseller)
trong thế giới nói tiếng Tây Ban Nha. Bản dịch sang tiếng Anh được Edith
Grossman thực hiện và phát hành vào năm 2003, cũng trở nên tác phẩm bán chạy
nhất.
Vào ngày 10/ 9/2004, tờ nhật báo El Tiempo của thành phố Bogota loan báo một
cuốn tiểu thuyết mới của Văn Hào García Márquez: "Hồi Ký của các con Đĩ ảm
đạm của Tôi" (Memories of My Melancholy Whores = Memoria de mis putas
tristes). Ấn bản đầu tiên của tác phẩm này đã xuất hiện vào tháng 10 năm đó
với số lượng một triệu cuốn.
Văn Hào García Márquez đã bị mang tiếng vì chiều hướng chính trị khuynh tả,
ông đã từng là bạn thân của Fidel Castro, nhà độc tài của xứ Cuba, và trong
thập niên 1960 và 1970, ông đã tỏ rõ là có thiện cảm với các nhóm cách mạng
Mác Xít trong vùng Mỹ Châu La Tinh, nhưng dù thế, ông đã không ủng hộ các
nhóm du kích như FARC và ELN từng hoạt động trong nước Colombia.
2/ Các tác phẩm chính của Văn Hào Gabriel José García Márquez
Các Tiểu Thuyết:
• 1962 – Vào Giờ Độc Ác (In Evil Hour)
• 1967 – 100 Năm Cô Đơn (One Hundred Years of Solitude)
• 1975 – Mùa Thu của viên Tộc Trưởng (The Autumn of the Patriarch)
• 1981 – Biên Niên Sử của một cái Chết đã được báo trước (Chronical of a
Death Foretold)
• 1985 – Tình Yêu vào Thời Thổ Tả (Love in the Time of Cholera)
• 1989 – Viên Tướng trong Mê Cung (The General in his Labyrinth)
• 1994 – Về Tình Yêu và các Con Quỷ khác (Of Love and Other Demons)
Các Truyên Ngắn, Tiểu Thuyết Ngắn và Tuyển Tập:
• 1947 – Con Mắt của con Chó Xanh (Eyes of a Blue Dog)
• 1955 – Trận Bão Lá (Leaf Storm)
• 1961 – Không Ai viết Thư cho ông Đại Tá (No One Writes to the Colonel)
• 1962 – Đám Táng của Bà Má Lớn (Big Mama's Funeral)
• 1968 – Một Người rất già với các Cánh Lớn (A Very Old Man with Enormous
Wings)
• 1978 – Câu Chuyện buồn và khó tin của cô Erendira ngây thơ và bà nội không
có trái tim của cô ta (The Incredible and Sad Tale of Innocent Erendira and
her Heartless Grandmother)
• 1992 – Các Kẻ Hành Hương lạ lùng (Strange Pilgrims)
• 1995 – Người Đẹp Trai nhất thế giới bị chết đuối (The Handsomest Drowned
Man in the world)
• 1998 – Vì Đất Nước trong tầm Trẻ Em (For the Sake of A Country Within
Reach of The Children)
• 2004 – Hồi Ký của các con Đĩ ảm đạm của Tôi (Memories of My Melancholy
Whores)
Các Truyện không hư cấu (Nonfiction)
• 1970 – Câu Truyện của một Thủy Thủ bị đắm tầu (The Story of a Shipwrecked
Sailor)
• 1986 – Các cuộc Phiêu Lưu của Miguel Littin (Clandestine in Chile: The
Adventures of Miguel Littin)
• 1996 – Tin Tức của một vụ Bắt Cóc (News of a Kidnapping)
• 2002 – Sống để Kể Chuyện (Living to Tell the Tale).
3/ Nội dung Tác Phẩm "100 Năm Cô Đơn"
“100 Năm Cô Đơn” gồm 20 chương không đánh số. Chương đầu tiên kể về nguồn
gốc của gia đình Buendía lập nghiệp tại một thị trấn giả tưởng Macondo. Câu
chuyện bắt đầu với trí nhớ của Đại Tá Aureliano Buendía đối diện với đội
lính xử bắn và mọi câu chuyện được kể lại qua trí nhớ của nhiều nhân vật.
Người kể chuyện cho biết cha của Đại Tá là José Arcadio Buendía, mẹ là
Úrsula Iguarán, người du sinh gypsy Melquiades và một nhóm nhỏ các người
định cư ban đầu, tất cả đã lập nên ngôi làng Macondo nhỏ bé. Do sống tại một
nơi cô lập và cô đơn cả về mặt tâm lý, người dân của làng Macondo chỉ biết
về các tiến bộ bên ngoài nhờ những người du sinh gypsies. Một trong những
người chuyên sống lang thang này tên là Melquiades đã có được một cuốn sổ
chữ Phạn (sanskrit) trong đó có chứa đựng lịch sử và số mệnh của gia đình
Buendía và cuốn sổ ghi này sẽ được giải mã trước khi người trưởng thành cuối
cùng của gia đình Buendía qua đời.
Macondo là một nơi không có trên bản đồ và tại nơi này, mọi thứ đều mang vẻ
ma thuật (magic). Và sự cô đơn tỏa ra tại khắp nơi, từ mọi đồ vật. Thị trấn
Macondo nằm bên ngoài nền văn minh, sau rặng núi dẫn đến thành phố cổ
Riohacha, nơi này nhiều năm về trước, tổ tiên của gia đình Buendía đã cư
ngụ. Vào thời xa xưa đó, người tộc trưởng tên là Jose Arcadio và vợ Úrsula,
là họ hàng với nhau, đã sinh sống trong sợ hãi rằng họ sẽ sinh ra một đứa bé
có đuôi heo. Sự sợ hãi là một chủ đề thường thấy của cuốn tiểu thuyết. Nỗi
sợ hãi này đã ám ảnh và theo đuổi 6 thế hệ của gia đình này, đã ảnh hưởng
xấu tới tình yêu chân thành và các truyền thống thành thực của họ.
Sau đám cưới với José Arcadio Buendía, nàng Úrsula từ chối liên hệ tình dục
với chồng vì e sợ sẽ sinh ra một thứ con mang hình bóng của quỷ dữ. Nàng bèn
luôn luôn đeo trong người một thứ khóa trinh để không cho phép người chồng
giao hợp. Vào một ngày kia, José Arcadio thắng Prudencia Aguilar trong một
trận chọi gà và Aguilar đã chế nhạo Arcadio về sự trinh tiết của Úrsula. Vì
bị xỉ nhục, José Arcadio nổi giận, bèn dùng một chiếc giáo đâm vào cổ
Aguilar. Từ nay, Úrsula luôn luôn cảm thấy hồn ma của người chết đó tìm cách
bịt họng người chồng của nàng.
Hồn ma Aguilar luôn luôn ám ảnh đôi vợ chồng Buendía này khiến cho họ phải
chạy khỏi ngôi làng của tổ tiên. Cùng với một số bạn bè, đôi vợ chồng này đã
đi vào trong rừng sâu và Jose Arcadio II đã ra đời trong chuyến thám hiểm và
sau hai năm làm việc kiệt lực, Jose Arcadio Buendía nằm mơ thấy một thành
phố có các bức tường bằng kính. Jose bèn dùng giấc mơ này làm điềm lành để
thuyết phục một số người quen xây dựng nên thị trấn Macondo.
Khi Jose Arcadio Buendía và vợ Ursula cùng với 20 nhà thám hiểm định cư
trong rừng rậm, thế giới tại nơi này hầu như sơ khai, mọi vật hầu như chưa
có tên và khi muốn có đồ vật nào, người ta phải chỉ tay vào món đó. Thị trấn
mới này chìm trong cảnh cô đơn. Người con thứ hai của gia đình Buendía là
Aureliano, người mà sau này trở nên Đại Tá, đã sinh ra tại nơi đây. Khung
cảnh sống tại nơi bán khai này mang vẻ nhàm chán, lặp lại cùng với các hành
động, cùng các bộ mặt và ngay cả cùng với tên của các người trong gia đình.
Người con trai Jose Arcadio II đã liên hệ tình cảm với cô người làm Pilar
Ternera, một người biết bói toán, biết đoán điềm giải mộng và họ sinh ra đứa
con trai Arcadio III.
Jose Arcadio đã tổ chức nơi định cư nhỏ bé thành một cộng đồng kiểu mẫu, đã
trù liệu đường phố thế nào để mọi căn nhà nằm trong bóng mát, tránh khỏi ánh
sáng mặt trời nhiệt đới, nhưng Macondo vẫn là một nơi nóng bỏng và khi làn
sóng nhiệt độ cao tràn tới, mọi người và thú vật đều hóa điên. Khi đó, chim
muông đánh phá các căn nhà và thị trấn chìm trong cơn dịch mất ngủ. Cơn dịch
này khiến cho mọi người không những mất ngủ mà còn mất trí nhớ.
Khi tên các đồ vật và cách dùng bị quên hết, Jose Arcadio phải làm ra một từ
điển điện toán sơ khai, làm được 14 ngàn danh từ thì anh chàng du sinh gypsy
tên là Melquiades trở về Macondo với liều thuốc chữa nạn dịch mất ngủ. Việc
tàn phá trí nhớ, giống như cảnh lão suy và bài thuốc chữa trị là dấu ấn của
cách trở về với lịch sử, với khoảng thời gian theo niên biểu và theo tâm lý
và cũng là cách để đi về cảnh cô lập kỳ lạ.
Giống như trong Thánh Kinh, cách bắt đầu mọi sự việc đều từ "lời nói", thứ
này mang lại ánh sáng nhận thức của con người. Câu chuyện khởi đầu bằng trí
nhớ khi một đứa trẻ khám phá ra một vật gì lần đầu tiên. Trong trường hợp
cuốn truyện, đứa trẻ không chỉ là ông đại tá mà còn là người cha của ông
này, ông cố José Arcadio Buendía. Đây là người bị ám ảnh giống như trẻ con
về các thứ thông thường, với tất cả mọi người, ngoại trừ những người
Macodians.
4/ Ý nghĩa của Tác Phẩm
Chủ đề của cuốn truyện “100 Năm Cô Đơn” là sự "cô đơn". Một thí dụ điển hình
của con người cô đơn là đại tá Aureliano Buendía. Thời thiếu niên đã khiến
ông ta phải yên lặng và cô độc, ông ta luôn luôn là người tỵ nạn trong cảnh
cô đơn. Do sinh đẻ tại Macondo, ông ta đương nhiên hòa nhập vào cái cộng
đồng bất hạnh này, đã “khóc” trong bụng mẹ Ursula, buồn tủi trong cảnh sống
sắp tới.
Macondo cũng là một thị trấn cô đơn. Trong nhiều năm trước kia, thị trấn này
không liên lạc với thế giới bên ngoài ngoại trừ các người du sinh tới nơi
đây để bán hàng. Người tộc trưởng của gia đình Buendia là Jose Arcadio
Buendia cũng là người thích sống xa cách với các người khác, thường chìm đắm
trong cảnh cô đơn để tìm kiếm các vấn đề bí ẩn và đặc tính này đã truyền lại
cho các con cháu nhiều đời sau.
Do dần dần tiếp xúc với nền văn minh, ngôi làng Macondo ban đầu đã mất đi
trạng thái trong trắng và cô đơn, để trở nên tiến bộ nhưng các cuộc nội
chiến đã mang lại nhiều cảnh bạo lực và chết chóc cho ngôi làng yên tĩnh
trước kia và Aureliano trở nên thủ lãnh của các người nổi loạn và được gọi
là Đại Tá Aureliano Buendia. Làng Macondo mất đi phong cảnh đồng quê thanh
bình và ma thuật, mà trở thành một thị trấn liên lạc với thế giới bên ngoài
qua viên đại tá nhiều tiếng xấu. Chính quyền của thị trấn này cũng thay đổi
nhiều lần và người tàn ác nhất trong giòng họ Buendia đã cai trị thị trấn và
sau này bị xử bắn trước đội hành quyết. Một thị trưởng khác được bầu lên
nhưng rồi ông ta bị chết trong một cuộc nội chiến, chỉ tới khi có hiệp ước,
thị trấn Macondo mới được hưởng hòa bình trong cảnh cô đơn và cô lập.
Tác giả García Márquez đã mô tả các thời điểm quan trọng của các nhân vật
Buendia qua những cảnh đời: sinh ra, yêu đương, kết hôn và qua đời. Một số
người trong gia đình này thì hoang dã, tham tình dục, các người khác lại yên
lặng và cô đơn, ưa thích ẩn mình trong phòng để làm ra các con cá vàng rất
nhỏ hay chăm chú xem xét các bản viết cổ.
Nền văn minh tới làng Macondo khi các nhà tư bản đế quốc, tức là các người
Mỹ, thiết lập nên tại nơi đây một đồn điền trồng chuối, họ đã khai thác đất
đai và bóc lột nhân công. Do cách đối xử vô nhân đạo, các công nhân đã đình
công. Cuộc đàn áp do quân đội về phe các nhà tư bản, đã làm cho hàng ngàn
người thiệt mạng và sau khi các tử thi bị ném xuống biển, Macondo bị 5 năm
mưa liên tục, tạo nên cảnh lụt lội rồi suy tàn. Các năm tháng bạo hành và
tiến bộ sai, đã đưa thị trấn Macondo trở về thứ chu kỳ tiền định rất buồn
thảm.
Trong phần đầu của tác phẩm "100 Năm Cô Đơn", hai đặc tính hiện thực và ma
thuật (the magic) có vẻ không hòa hợp với nhau nhưng cả hai đã được tác giả
coi là cần thiết để diễn tả quan niệm của tác giả về thế giới bên ngoài.
Theo nhà văn García Márquez, sự thực tại (reality) không phải là thứ mà một
người quan sát đã kinh nghiệm, mà phải do các cá nhân có quá trình khác nhau
nhận xét nhờ kinh nghiệm của từng người. Thứ viễn cảnh đa dạng này rất thích
hợp với miền Mỹ Châu La Tinh, là miền đất còn bỡ ngỡ trước sự tân tiến và
thời kỳ ban đầu của cách kỹ nghệ hóa, đây là nơi bị tàn phá vì các cuộc nội
chiến, bị cướp bóc do chủ nghĩa đế quốc, vì vậy các kinh nghiệm của người
dân nơi đây khác với thứ của người dân sống trong một xã hội đồng nhất hơn.
Trường phái hiện thực ma thuật (magical realism) đã chuyên chở một thứ thực
tại (reality) bao gồm bên trong đặc tính ma thuật mà tôn giáo và các niềm
tin dị đoan đã mang lại cho xã hội nơi đây. Tác phẩm "100 Năm Cô Đơn" cũng
bao gồm các chuyện kể theo Thánh Kinh và các thần thoại của vùng Mỹ Châu La
Tinh và tác giả García Márquez đã pha trộn thực tại (reality) với hư cấu
(fiction) để chứng tỏ rằng đôi khi sự hư cấu còn "thực" hơn cả sự thực tại:
các cảnh tàn sát những công nhân của Macondo đã là những nỗi kinh hoàng mà
người ta không thể tưởng tượng ra nổi. Rồi thì, đời sống thực bắt đầu với
những kỳ quặc (fantasy) mà cuốn tiểu thuyết cố gắng tạo ra cùng các cảm
giác. Tác giả như vậy muốn chứng tỏ rằng sự thực tại thì có tính chủ quan
(subjective) và tùy thuộc vào từng cá nhân.
Một ý nghĩa khác trong tác phẩm "100 Năm Cô Đơn" là ý niệm về "thời gian".
Nhiều thế hệ của gia đình Buendia đã có các cá tính lặp lại do di truyền.
Ursula Iguaran là người đầu tiên của Macondo đã nhận biết rằng "thời gian"
thì không hữu hạn, mà dần dần tiến về phía trước và sự đồng thời của các
thời gian khiến cho nhiều người mắc bệnh "quên" khi họ lẫn lộn quá khứ với
tương lai và tương lai cũng dễ nhớ như quá khứ bởi vì cùng theo một thứ chu
kỳ. Các lời tiên đoán của Melquiades chứng tỏ rằng các biến cố thì liên tục
trong giòng thời gian, và kể từ khởi đầu của cuốn truyện, các người du sinh
già có thể đoán trước được thời vận cuối cùng như thể các biến cố cùng xẩy
ra và các bóng ma của Melquiades và Jose Arcadio Buendia đã cho thấy quá khứ
của họ giống như hiện tại.
Một chủ đề khác của cuốn tiểu thuyết là "ngôn ngữ". Trong một thế giới mới
được khai sinh, ngôn ngữ còn ở trong tình trạng chưa hoàn hảo. Nhiều thứ
ngôn ngữ được đề cập trong cuốn truyện, từ cách trẻ em học vần, tới các
giòng chữ sâm trên thân thể của Jose Arcadio, tới tiếng La Tinh nói ra do
Jose Arcadio và các lời tiên đoán của Melquiades do phiên dịch tiếng Phạn
(Sanskrit). Cuối cùng, cũng do cách đọc chữ mà thị trấn Macondo bị tàn phá
như thể do một lời tiên tri và mỗi hành động đọc sách đều mang lại hậu quả
do các ý nghĩa đã được tiền định.
"100 Năm Cô Đơn" còn mang một chủ đề khác, đó là "trí nhớ" (memory). Có
những nhân vật trong truyện có quá nhiều trí nhớ trong khi một số khác lại
mắc bệnh "quên lãng". Rebeca vì nhớ quá nhiều, đã khóa mình trong phòng và
nỗi luyến tiếc những ngày tốt đẹp đã qua khiến cho bà ta không biết tới các
thay đổi của thế giới bên ngoài, ngược lại, Đại Tá Aureliano Buendia bị mất
hết trí nhớ. Lòng nhớ quê cũ và bệnh mất trí nhớ là hai thứ bệnh của giòng
họ Buendia, một thứ buộc nạn nhân vào quá khứ, thứ kia làm cho nạn nhân bị
lường gạt vì tương lai.
Tác phẩm "100 Năm Cô Đơn" còn đề cập tới nhiều câu trong Thánh Kinh với các
nhân vật có tính ngụ ngôn. Làng Macondo được tạo nên từ sự chân thật, ngây
thơ và kết thúc bằng trận lụt lội giống như trận Hồng Thủy. Jose Arcadio
Buendia và vợ Ursula được diễn tả giống như Adam và Eve trong Vườn Địa Đàng,
và giống hệt như nhân loại, cuộc đời của gia đình Buendia đã gặp cảnh cô đơn
và các thảm họa không tránh khỏi, trong khi hạnh phúc thì phù du và xa vời.
Cuốn tiểu thuyết “100 Năm Cô Đơn” được García Márquez xuất bản tại Buenos
Aires vào giữa năm 1967, đã gây nên làn chấn động văn học trong khắp vùng Mỹ
Châu La Tinh. Cuốn tiểu thuyết này được giới phê bình văn học coi là một tác
phẩm lớn của nghệ thuật sáng tác và đã được quần chúng đón nhận với nhịp độ
mỗi tuần lễ có một đợt xuất bản mới. Danh tiếng của Văn Hào Gabriel Jose
García Márquez vang lừng, giống như các cầu thủ đá bóng hay các ca sĩ hát
nhạc boleros, bởi vì tác phẩm “100 Năm Cô Đơn” là cuốn tiểu thuyết rất phức
tạp và rất lôi cuốn người đọc.
Theo nhà văn Mario Vargas Llosa, “100 Năm Cô Đơn là tác phẩm nới rộng và
phóng đại thứ thế giới đã được dựng nên bởi các cuốn truyện trước kia của
tác giả” bởi vì qua tác phẩm này, Văn Hào García Márquez đã pha trộn nhiều
yếu tố của các câu chuyện viết ra vào thời trước, kể cả các câu chuyện ngụ
ngôn trong Thánh Kinh, các kinh nghiệm cá nhân và các yếu tố của loại truyện
giả tưởng của các nhà văn viết tiểu thuyết người Hoa Kỳ.
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Phạm Văn Tuấn
|