Selmar Lagerlof

Vietsciences- Từ Vũ     14/08/2005  

 

Selmar Lagerlof (1858 - 1940) Nữ Văn Hào Thụy Ðiển, đàn bà đầu tiên đoạt giải Nobel (1909, Văn chương )

Tên thật  là Selma Ottiliana Lovisa Lagerlöf, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1858 tại  Mårbacka một làng nhỏ thuộc quận Östra Ämtervik  tỉnh Värmland Thụy Điển.

Khi mới chỉ được 3 tuổi rưỡi, cô bé Selma đã bị bịnh đau nhức nặng ở chân. Chứng đau nhức này đã đeo đuổi Selma suốt cuộc đời. Cũng chính vì tật bệnh này mà cô bé đã trở thành chậm chạp, không thể nhanh nhẹn như những đứa trẻ đồng tuổi khác. Tuy nhiên, để bù vào đó, cô thường xuyên được ngồi bên cạnh bà nội để nghe bà kể lại những chuyện thần kỳ về ngôi trang viên cổ theo truyền thuyết trong vùng Värmland. Những chuyện thần kỳ này cũng đã  được thêm thắt một vài điều mê tín, hoang đường nhưng chất chứa đầy vẻ thơ mộng.

Lúc được 7 tuổi, sau khi đọc một quyển sách, cô bé Selma tự quyết định sẽ trở thành một nữ văn sĩ .

Năm lên 10, Selma đã đọc thông suốt được từ đầu đến cuối quyển thánh kinh và vào năm 12 tuổi, Selma sáng tác bài thơ đầu tiên nói về  Mårbacka, sau đó cô tiếp tục viết những bản văn khác bằng những vần điệu của thi ca.

 Theo thời gian, Selma Ottiliana Lovisa Lagerlöf đã trở thành một nhà thơ của vùng cô sinh trưởng. Một đôi khi cô thi sĩ nhỏ bé của chúng ta cũng sáng tác những bài thơ thể theo những lần được đặt hàng của những người quen biết trong làng cho những dịp cưới hỏi hay những dịp khác. Selma được nhiều cô giáo dạy học tại nhà, đến  khi tự biết rằng mình đã có đủ khả năng để học xa hơn nữa nên vào năm 1881 cô đã mượn số tiền dành dụm của cha, một vị sĩ quan hưu trí của quân đội Thụy Điến, để lên Stockholm (thủ đô nước Thụy Điển) theo học ngành sư phạm tại Sjöbergs Lyceum .

Năm 1882, cô tiếp tục học tại Trường Đào Tạo Nữ Giáo Viên (Högre lärarinneseminariet - Royal Women's Superior Training Academy) tại Stockholm thủ đô nước Thụy Điển. Cũng chính trong thời kỳ này, Selma có ý định viết lại những câu chuyện chất chứa trong trí nhớ của cô từ khi được nghe bà nội  thuật kể.

Năm 1885, sau khi ra trường Selma dạy cấp hai tại Landskrona, nơi đây cô phục vụ nghề "gõ đầu trẻ " trong suốt 10 năm cho đến năm 1895.

Năm 1889, thân phụ Selma qua đời và sản địa phải bắt buộc phải bán vì túng hụt, đây là một bỗi đau buồn lớn lao của Selma nhưng cô tự hứa sẽ tậu lại cơ nghiệp này càng sớm càng tốt khi cô đã tiết kiệm đủ số tiền cần thiết .

 Selma khởi đầu viết một quyển sách nói về vùng đất bà sinh trưởng, Värmland, sau đó  đã gởi những chương đầu tiên cho tạp chí Idun và năm 1890 Selma đã đoạt được giải nhất của tờ báo này và sự kiện này cũng làm cho bà được khá dễ ràng khi tiếp xúc với các nhà xuất bản.

Năm 1891, Selma hoàn tất tác phẩm và cho xuất bản dưới tựa đề  truyện dân gian "Gösta Berlings". Tại Thụy Điển, quê hương của Selma Lagerlöf, mọi người không ai lưu tâm đến mà phải đợi đến lúc một tờ nhật báo

Đan Mạch trao tặng một giải thưởng và giới phê bình văn học Đan Mạch đã đề cập rất nhiều đến Selma, mở đường cho tên tuổi của Selma Lagerlöf ược người Thụy Điển biết tới.

Năm 1894 : Xuất bản truyện Osynliga Tankar (Invisible Links) truyện có cả " Downie" . Cũng năm này Selma đã gặp một người bạn đời, cô Sophie Elkan (1853-1921). Trong những lá thư viết gởi Sophie Elkan, Du lär mig att bli fri - (You Teach Me to Be Free), xuất bản năm 1992, Selma Lagerlöf thuật lại tình cảm nồng nàn quan trọng nhất trong cuộc đời của Selma, tình cảm này khởi đầu từ năm 1894 cho đến ngày Elkan qua đời năm 1921. Elkan cũng là một cây viết nữ, gốc Do Thái, Elkan đã tháp tùng Lagerlöf trong các chuyến đi Ý, Jérusalem và Ai Cập. Tác phẩm Jérusalem I (1901) Lagerlöf đã đề tặng "Sophie Elkan, người đồng hành của cuộc đời và  văn chương tôi ". Một người đàn bà khác cũng được sự ưu ái của Selma Lagerlöf, Valborg Olander, một nữ giáo sư tại trường trung học Falun, một đối thủ hàng đầu của Elkan. Sự liên lạc của Lagerlöf với Olander đã gây ra nhiều màn ghen tương của Sophie Elkan.

Năm 1895 Selma Lagerlöf nhận được sự giúp đỡ tài chánh của hoàng gia và hàn lâm viện Thụy Điển khuyến khích bà ngưng dạy học để chuyên tâm cống hiến vào công việc viết sách.

Selma du lịch rất nhiều và những chuyến đi này đã là nguồn cảm hứng cho một số truyện của bà : Sau chuyến đi Ý cùng với Sophie Elkan, Elma đã viết và cho  xuất bản tác phẩm Antikrists mirakler (The Miracles of Antichrist, 1897), một tiếu thuyết theo lối xã hội chủ nghĩa. Vào mùa đông năm 1899-1900, sau chuyến đi tại Ai Cập và Palestine, Selma đã viết truyện Jerusalem (năm 1901), kể lại lịch sử một gia đình người Thụy Điển di cư đến vùng thánh địa. Đây cũng là một trong những thành công đầu tiên của Selma Lagerlöf.

Mọi người yêu cầu bà viết một tác phẩm, dành cho trẻ em tại các trường học Thụy điển, kể về nước Thụy Điển và người Thụy Điển. Chính vì thế Nils Holgersson, đứa con trai 14 tuổi bị biến thành một chú lùn, bò ra khỏi nhà cậu ta rồi leo lên lưng một con ngỗng trời để làm một cuộc hành trình qua các  tỉnh của nước Thụy Điển, đã được bà cho ra đời vào năm 1906 trong tác phẩm Nils Holgerssons underbara resa genom Sverige - (Le merveilleux Voyage de Nils Holgersson à travers la Suède - The Wonderful Adventures of Nils) . Đây là một truyện viết cho trẻ em chắc chắn được phổ biến nhiều nhất trên thế giới, được dịch hơn 40 thứ tiếng.

Cũng nhờ truyện này, năm 1909, Selma Lagerlöf đã được phong tặng giải thưởng văn chương Nobel. là người đàn bà đầu tiên trên thế giới và cũng là nhà văn đầu tiên của Thụy Điển đoạt giải thưởng này.

Ngay sau nhận giải Nobel, Selma quay trở về Mårbacka và dùng tiền trúng giải để mua lại trang trại của gia đình đã bán.

Năm 1911 Selma cho xuất bản  tiểu thuyết Liljecronas hem. Đây là một tự truyện úp mở về lịch sử của ngôi trang trại Mårbacka và người bà thân yêu.

Năm 1912, Selma Lagerlöf thực hiện một cuộc hành trình đến Phần Lan, tại đây bà đã được đón  tiếp như một công chúa.  Tiếp sau đó là cuộc hành trình sáng chói nhất tại Moscow - Mát Cơ Va - nơi đây bà đã được gia đình Nobel đón mời. Cũng năm này, tác phẩm Korkarlen -Thy Soul Shall Witness- tác phẩm hiến tặng cho hội bài lao thụy điển.

Năm 1913, xuất bản Tösen från Stormyrtorpet (The Girl from the Marsh Croft). Quyển truyện bắt nguồn từ sự hợp tác sắp xếp từ mấy năm trước giữa Selma và hãng Swedish Film. Cuốn phim được điều khiển bởi Victor Sjöstrom, đã trở thành một thành công quốc tế.

 Năm 1914, vào buổi chiều tối ngày chủ nhật lễ hiện xuống, trong khi Selma đang ngồi viết một bức thư cho Sophie Elkan,  Erik Axel Karlfeldt  gọi điện thoại cho Selma để loan báo rằng bà đã được Hàn Lâm Viện Thụy Điển lựa chọn là một thành viên trong Hàn Lâm Viện. Đầu tiên bà không tin cho lắm về biến cố này bởi lẽ đây là lần đầu tiên một người đàn bà có được vinh hạnh này. Đối với bà đây là một "chiến thắng của nữ giới "

Trong cùng năm này, Selma viết lại "Downie" cho sân khấu và tiểu thuyết Kejsaren av Portugallien- The Emperor of Portugalia- với tựa đề  A story from Värmland, sau đó đã trở thành nổi bật và được quay thành phim.

Năm 1915 phần đầu của quyển Troll och människor - "Des trolls et des hommes" - được xuất bản. Chủ đề của truyện là linh hồn con người nhưng  Selma đã diễn tả qua hình ảnh một con quỷ khổng lồ, (quỷ lùn trong truyện cổ tích Đan Mạch, Na Uy) - "troll" và những con rồng trong các chuyện cổ tích để miêu tả những ý nghĩ trong tâm trí con người.

Trong suốt thời kỳ Đệ Nhất Thế Chiến, Selma đã gặp rất nhiều  khó khăn khi viết nhưng bà cũng cố tập trung vào công việc sáng tác.

Năm 1918, tiểu thuyết Bannlyst - (The Outcast)  ra đời, đây là một quyển truyện viết theo tư tưởng hoà bình. Cùng năm này bà nhận nhiệm vụ của Hàn Lâm Viện Thụy Điển viết một bài  đề cập tới Zacharias Topelius nhân ngày kỷ niệm 100 năm nhà văn kiêm sử gia quan trọng của nước Phần Lan (sinh năm 1818 mất năm 1898), nhưng Selma đã viết một bộ sách về toàn bộ cuộc đi của  Zachris Topelius, công trình của bà được ra mắt vào năm 1920 gồm mấy bộ sách và đã trở thành rất phổ biến vào những năm 1930. Chính bộ sách này cũng là một dịp để cho bà sửa soạn viết  tự truyện của chính bà.

Năm 1921, Selma hoàn tất phần thứ nhì của quyển Troll och människor- Troll och människor del 2.

 Năm 1922,  viết Mårbacka -The Story of a Manor phần 1 (Memoirs)" , đó là phần thứ nhất tự truyện của Selma.

Lẽ ra tiếp tục viết loạt truyện về Mårbacka nhưng bà lại khởi đầu viết bộ sách gồm 3 quyển đó là  Lowenskoldska Ringen (năm 1925). Cũng trong năm này là truyện Charlotte Löwensköld và năm 1928 hoàn tất phần cuối, Anna Swärd .

Theo thứ tự niên đại Selma đã thay đổi có thể vì chiến tranh và những truyện văn xuôi của những năm 1910. Selma khai triển trong suốt đời sống của bà và phong văn thơ ngây của truyện thần thoại được thu hẹp lại với tri thức đậm đà hơn về nhân loại.

Tiếp sau bộ truyện 3 quyển, Selma sáng tác một loạt truyện viết về Mårbacka sau đó là Ett Barns Memoarer  (Memories of My Childhood) với tựa đề Mårbacka II (1930) và Dagbok For Selma Lagerlöf (The Diary of Selma Lagerlöf), Mårbacka III (1932).

Năm 1933, Selma Lagerlöf xuất bản quyển cuối cùng:  Host- (Harvest). Nội dung gồm những bài nói chuyện, tiểu luận, truyện ngắn và thần thoại.

Suốt năm 1930 bà cũng đảm trách vai trò một người đọc sách cho đài phát thanh. Việc làm này đã rất phù hợp với bà đến nỗi bà đã nói rằng nếu không là một nhà văn thì bà đã là một nữ  diễn viên.

Rất nhiều tác phẩm của Selma Lagerlöf đã được quay thành phim. Đầu tiên là  Tosen Fran Stormyrtorpet- (The Girl from the Marsh Croft)  dưới sự đạo diễn của Victor Sjöström. Năm 1919 Swedish Filmindustry đã được phép độc quyền quay những sáng tác của bà và cũng ngay năm này,  Mauritz (Moje) Stiller đạo diễn phim Herr Arne´s Hoard tuy nhiên Selma đã không hoàn toàn hài lòng với việc làm của Stiller.

Sự hợp tác giữa Selam và Victor Sjöström tốt đẹp hơn và  năm 1919-1920  Sjöström đã quay phần đầu trong một loạt phim đặt cơ sở trên tập truyện Jerusalem. Đó là  Ingmarssons I and II (1919) và Karin Ingmarsdotter (1920). Năm 1921 Sjöström thực hiện phim The phantome carriage/Thy soul shall witness. Tales of a Manor, The saga of Gunnar Hede (1922)  lại được hãng phim trao phó cho Mauritz (Moje) Stiller và làm cho Selma thêm một lần nữa khó chịu. Bà đã cố gắng ngăn cản việc thực hiện The story of Gösta Berling (1924) của Stiller nhưng không thành công theo ý bà ( Phim do nữ tài tử Greta Garbo thủ diễn).

Năm 1925, Gustaf Molander được trao phó thực hiện Ingmarsarvet cameTill Österland năm 1926. Cũng trong năm này hãng phim Metro-Goldwyn-Mayer thực hiện phim The Emperor of Portugalia , nhưng tiếc thay phim này đã bị thất lạc.

 Khi Thế Chiến Thứ Hai sắp diễn ra, Selma tích cực giúp đõ những trí thức , văn nghệ sĩ Đức vượt thoát những sự đàn áp của chế độ Đức Quốc Xã.

Bà đã tìm cách cung cấp một giấy thông hành cho nhà thơ Nelly Sachs để cứu thoát ông ta khỏi lò thiêu trong trại tập trung. Khi nước Phần Lan chiến đấu chống lại chế độ Sô Viết trong trận chiến mùa Đông, Selma Lagerlöf đã đem mề đay vàng của Giải Nobel mà bà đã được trao để đóng góp giúp nước láng giềng này trong cuộc chiến của họ.

Selma Lagerlöf đã đột ngột từ trần ngày 16 tháng 3 năm 1940 tại Mårbacka và thi hài bà được an táng tại nghĩa trang  Östra Ämtervik.

Một số tác phẩm của bà đã được xuất bản sau khi bà từ trần như Från skilda tider 1 - 2 - (From different times 1-2) - năm 1943-45, Brev 1 - 2 -Letters in two parts- năm 1967-69 và  Du lär mig att bli fri - Letters to Sophie Elkan năm 1992.

Những sáng tác của Selma Lagerlöf cũng được quay thành phim sau ngày bà chết. Gustaf Molander thực hiện phim The emperor of Portugalia  năm 1944 và Herr Arne´s Hoard năm 1959. Lars Molin cũng thực hiện một loạt phim cho truyền hình vào năm 1993 về The emperor of Portugalia" .

 

Tác phẩm

. Gösta Berlings saga, 1891, tiểu thuyết.

. Osynliga länkar, 1894, tập truyện.

. Antikrists mirakler, 1897,  tiểu thuyết
. Drottningar i Kungahälla, 1899, nouvelles tập truyện
.
En herrgårdssägen, 1899, tiểu thuyết
. Jerusalem, del I 1901 och del II 1902, tiểu thuyết

. Herr Arnes penningar, 1904, tiểu thuyết
. Kristuslegender, 1904,  tập truyện
. Nils Holgerssons underbara resa genom Sverige, 2 bộ, 1906--1907

. En saga om en saga och andra sagor, 1908
. Liljecronas hem, 1911, tiểu thuyết
. Hem och stat, 1911
. Körkarlen, 1912, tiểu thuyết.
. Tösen från Stormyrtorpet, 1913,  tập truyện
. Dunungen, 1914, kịch
. Kejsaren av Portugallien, 1914,  tiểu thuyết
. Troll och människor, 2 vol., 1915--1921, tập truyện
. Bannlyst, 1918, tiểu thuyết.
. Zachris Topelius, 1920
. Mårbacka, 1922,   hồi ký
. Löwensköldska ringen, 1925,  tiểu thuyết
. Charlotte Löwensköld, 1925,  tiểu thuyết
. Anna Svärd, 1928,  tiểu thuyết
. En herrgårdssägen, 1929, kịch 
. Ett barns memoarer, 1930, hồi ký
. Dagbok, 1932, hồi ký
. Höst, 1933,  tập truyện
. Från skilda tider, 2 bộ , 1943--1945
. Dockteaterspel, 1959
. Brev, del 1 1967, del 2 1969

© http://vietsciences.net   và  http://vietsciences.free.fr Từ Vũ