Ðọc
Giã từ vũ khí
1/ Tiểu sử
![](../../../nobel/litterature/images/Family1902.jpg)
Ernest Miller Hemingway là người con thứ hai trong
số 6 người con của bác sĩ Clarence Edmonds Hemingway
và bà Grace Hall Hemingway, chào đời vào ngày 21
tháng 7 năm 1899 tại Oak Park, gần thành phố
Chicago, thuộc tiểu bang Illinois. Mẹ của Ernest là
bà Grace, là một người ngoan đạo, có tài về âm nhạc
nên đã muốn cho Ernest phát triển năng khiếu này
nhưng đối với bà Grace, Ernest Hemingway là một nỗi
thất vọng. Cậu thiếu niên này được học âm nhạc, tập
hát và tập đàn hồ cầm (cello) nhưng mỗi khi mẹ đi
vắng, Hemingway đã cùng các bạn chuyển căn phòng tập
nhạc thành võ đài đấu quyền Anh. Bản tính ưa chuộng
chủ nghĩa cá nhân đã thể hiện nơi con người của
Hemingway bằng các phản kháng nhỏ nhặt, để rồi trong
cuộc đời sau này, đã hiện ra bằng các hành động trên
tầm vóc lớn hơn.
Ernest
Hemingway theo học trường trung học Oak Park và
trong thời gian còn đi học, đã bắt đầu viết văn và
tham gia vào các hoạt động báo chí của trường. Cuộc
sống thời trẻ tuổi này đáng nhớ vì Ernest cùng với
gia đình trải qua những mùa hè tại miền bắc của tiểu
bang Michigan, bên hồ Walloon. Chính tại nơi thiên
nhiên này, Ernest Hemingway đã thừa hưởng ở cha hai
thú vui là săn bắn và câu cá, và những kỷ niệm thời
thơ ấu đã tạo nên các ấn tượng trong Ernest và phản
ánh sau này qua nhân vật Nick Adams như trong hai
truyện ngắn "Trại Mọi Da Đỏ "(Indian Camp) và "Giòng
sông đôi đường" (Big Two-Hearted River). Tại trường
trung học, Ernest Hemingway tham gia môn bóng bầu
dục và quyền Anh và cũng do môn thể thao sau này mà
Hemingway bị thương tại mắt trái. Đây là lý do mà
Ernest Hemingway bị quân đội Hoa Kỳ từ chối, không
nhận nhập ngũ. Môn quyền Anh đã là một sở thích lâu
dài của Hemingway, là chất liệu để ông viết ra các
truyện ngắn với những danh từ trong nghề.
Năm 1917, Ernest Hemingway tốt nghiệp trung học và
vì không muốn bước lên đại học, nên tới thành phố
Kansas, làm phóng viên cho tờ báo "Ngôi Sao" (Star).
Cuộc đời phóng viên trong nước đã không hấp dẫn
Ernest Hemingway được lâu, bởi vì ông đang hướng về
châu Âu là nơi đang xẩy ra cuộc Thế Chiến Thứ Nhất.
Do ưa thích mạo hiểm, Ernest Hemingway đã tình
nguyện tham gia vào Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ và qua
miền bắc nước Ý, làm tài xế xe cứu thương. Vì Hội
Hồng Thập Tự đã đặt các trạm cấp cứu gần nơi trận
tuyến, công việc của Hemingway là lái xe và phân
phối cho binh lính các gói kẹo và thuốc lá.
Hemingway đã ghi lại như sau : "mỗi buổi chiều và
buổi sáng, tôi bỏ đầy đồ vật vào túi đeo và mang
theo hộp đồ ăn cùng mặt nạ hơi ngạt rồi chạy ra
chiến hào, như thế là đủ vui rồi".
Vào ngày 18-7-1918, khi chưa tròn 19 tuổi, Ernest
Hemingway đã bị thương vì các mảnh đạn trái phá tại
mặt trận Fossalta thuộc miền Piave nước Ý, giáp với
nước Aùo. Mặc dù các vết thương, Hemingway còn cõng
một binh lính người Ý mang tới địa điểm chỉ huy.
Trên đường đi, Hemingway lại bị quân địch bắn 2
tràng đạn liên thanh, vào đầu gối và vào chân.
Hemingway được chữa trị tại bệnh viện Milan, được
tưởng thưởng huy chương anh dũng. Các kinh nghiệm
trên chiến trường, những đau khổ do các cuộc tàn sát
gây nên đã cung cấp cho Ernest Hemingway những hiểu
biết để sau này viết ra tác phẩm "Giã Từ Vũ Khí" (A
Farewell to Arms, 1929), một tiểu thuyết nổi danh
nhất đề cập tới chiến tranh. Trong thời gian nằm
dưỡng bệnh, Hemingway đã đam mê cô y tá người Mỹ tên
là Hannah Agnes von Kurowsky. Hai người đã trao đổi
với nhau một số thư từ nhưng vì cô Agnes cao tuổi
hơn và muốn tận tụy với nghề y tá, nên mối tình của
hai người dần dần phai lạt. Hemingway trở về Hoa Kỳ
và nàng Agnes ở lại. Sau khi đã yêu một người Ý,
nàng Agnes biên thư cho Hemingway, yêu cầu ông hãy
quên đi những gì đã xẩy ra, thế nhưng Hemingway vẫn
giữ mãi các bức thư tình trong suốt cuộc đời.
Sau Thế Chiến Thứ Nhất, Ernest Hemingway trở về Hoa
Kỳ và sinh sống tại miền bắc của tiểu bang Michigan.
Ông bắt đầu đọc sách, câu cá và viết truyện.
Hemingway đã làm một số công việc bình thường tại
Chicago và nhờ nơi này, làm quen với nhà văn
Sherwood Anderson. Năm 1921, Hemingway kết hôn với
cô Hadley Richardson rồi hai người dọn qua thành phố
Paris vì Hemingway nhận chân phóng viên cho tờ báo
Ngôi Sao Toronto (the Toronto Star). Do bức thư giới
thiệu của Sherwood Anderson, Hemingway làm quen với
các nhà văn lưu lạc người Mỹ như F. Scott
Fitzgerald, Ezra Pound và Gertrude Stein. Cũng tại
nhà của nữ văn sĩ Gertrude Stein mà Hemingway quen
biết nhiều tác giả và nghệ sĩ, và cũng chính
Gertrude Stein bình phẩm về giới nhà văn trẻ là một
"thế hệ lạc lõng" (the lost generation). Đây là lời
nhận xét đặc biệt mà về sau, Hemingway đã dùng trong
cuốn tiểu thuyết chính đầu tiên, cuốn "Mặt Trời vẫn
còn mọc" (The Sun also rises), xuất bản năm 1926.
Danh từ "thế hệ lạc lõng" đã mang một ý nghĩa đối
với các độc giả của Hemingway. Đó là các thái độ của
thế hệ sau chiến tranh, đặc biệt của các nhà văn trẻ
bởi vì cuộc sống và niềm tin của họ đã bị tổn thương
vì chiến cuộc, vì các tham lam vật chất đang dần dần
trở nên một thực tại khiến cho đời sống hóa thành vô
nghĩa.
![](../../../nobel/litterature/images/hem4.jpg)
Trong thời gian làm phóng viên tại Paris, Ernest
Hemingway đã đi khắp châu Âu, phỏng vấn các nhân vật
danh tiếng như Lloyd George, Clemenceau và
Mussolini… rồi vào năm 1925, cuốn tiểu thuyết quan
trọng đầu tiên của Hemingway được xuất bản tại New
York với tên là "Trong thời đại của chúng ta" (In
Our Time). Cũng vào thời gian này, nhiều thú vui như
trượt tuyết, coi đấu bò rừng, đi câu cá và đi săn…
đã là từng phần của cuộc sống của ông và từ đó tạo
nên nền móng của các cuốn tiểu thuyết sau này.
Vào năm 1927, Ernest Hemingway ly dị với người vợ
thứ nhất, rồi cũng vào năm này, lại kết hôn với cô
Pauline Pfeiffer, một nhà văn của tạp chí Vogue. Hai
người dọn nhà qua Key West, thuộc tiểu bang Florida
vào năm 1928. Một sự việc gây chấn động tới
Hemingway vào năm này là cuộc tự sát của người cha,
bởi vì ông Clarence Hemingway đã tuyệt vọng vì bệnh
cao huyết áp và bệnh tiểu đường. Ý tưởng về tự sát
đã phản ánh qua các bài viết của Hemingway, qua tư
tưởng của nhân vật Robert Jordan trong cuốn tiểu
thuyết "Vì ai, hồi chuông báo tử" (For Whom the Bell
Tolls) xuất bản vào năm 1940. Hãng Phim Paramount
Pictures đã mua bản quyền của cuốn truyện này với
giá cao kỷ lục vào thời bấy giờ là 150,000 mỹ kim
cộng thêm điều kiện do Hemingway đặt ra, là các tài
tử chính trong phim phải do Gary Cooper và Ingrid
Bergman phụ trách.
Trong thời gian còn làm phóng viên nước ngoài tại
thành phố Paris, Ernest Hemingway đã lưu tâm tới
tình hình chính trị của nước Tây Ban Nha dưới triều
đại Vua Alfonso-12. Hemingway đã thăm viếng xứ này
vào mùa hè năm 1931 sau khi chế độ quân chủ bị lật
đổ và ông đã tiên đoán rằng cuộc nội chiến sẽ xẩy ra
vào năm 1935. Tới khi cuộc nội chiến bùng nổ thực
sự, Ernest Hemingway bắt đầu viết và đọc các bài
diễn văn từ năm 1936 để gây quỹ cho phe Cộng Hòa Tây
Ban Nha. Năm 1937, Hemingway qua nước Tây Ban Nha để
tường thuật về cuộc chiến bằng các bài viết cho Liên
Hiệp các tờ báo Bắc Mỹ. Nhiều người trẻ từ Hoa Kỳ và
từ các quốc gia khác cũng tham gia vào lực lượng
Trung Thành (the Loyalists) để bảo vệ các lý tưởng
dân chủ, nhưng cuối cùng nhà độc tài Francisco
Franco đã thắng cuộc chiến.
Vào năm 1940, Hemingway và Pauline đã ly dị nhau và
Hemingway cưới nhà văn Martha Gelhorn. Hai người đi
du lịch vòng quanh Trung Hoa rồi tới xứ Cuba định
cư. Khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, Ernest Hemingway
đã tình nguyện đóng góp với Hải Quân Hoa Kỳ bằng con
thuyền đánh cá "Pilar" với công tác canh chừng các
tầu ngầm Đức xuất hiện trong vùng biển Caribbean.
Thế Chiến Thứ Hai diễn ra tại châu Âu đã lôi cuốn
Ernest Hemingway, khiến ông trở thành một thông tín
viên và trưởng ban châu Âu của Tạp Chí Collier. Do
muốn tường thuật về cuộc chiến, Hemingway đã nhiều
lần bay theo lực lượng Không Quân Hoàng Gia Anh
trong các cuộc oanh tạc trên miền đất Pháp bị quân
đội Đức chiếm đóng. Vào ngày 6-6-1944, Ernest
Hemingway tham dự cuộc đổ bộ của quân đội Đồng Minh
lên bờ biển Bắc Âu và có mặt
khi thành phố Paris được giải phóng khỏi quân đội
Đức Quốc Xã. Người ta còn kể lại rằng khi quân Đồng
Minh tiến vào khách sạn Ritz tại Paris, họ đã thấy
có tấm bảng ghi câu viết : "Ba đã chiếm khách sạn.
Nhiều đồ uống dưới hầm rượu". "Ba" (Papa) là tên gọi
vui đùa dành cho Ernest Hemingway.
Sau một lần ly dị nữa vào năm 1944, Ernest Hemingway
lại cưới cô thông tín viên của Tạp Chí Time tên là
Mary Welsh. Sau chiến tranh, họ sống với nhau tại
Venice rồi cuối cùng, quay về cư ngụ trong một nông
trại gần Havana, thuộc xứ Cuba.
Năm 1950, Ernest Hemingway cho xuất bản cuốn truyện
"Qua sông và vào trong rừng" (Across the River and
into the Trees) nhưng sáng tác này đã không thành
công. Tới năm 1952, một tác phẩm khác của Hemingway
đã mang lại ngôi vị cho ông trên văn đàn, đó là cuốn
"Ông Già và Biển Cả " (The Old Man and the Sea) và
nhờ cuốn tiểu thuyết ngắn này, Ernest Hemingway được
tặng giải thưởng văn học Pulitzer năm 1953.
Vào
tháng 1 năm 1954, Hemingway qua châu Phi để săn thú
rừng và người ta đã loan tin ông bị tử nạn máy bay
trong chuyến đi đó. Nhưng Hemingway đã sống sót, chỉ
bị thương nặng về cột sống và nội tạng nhưng cũng
nhân dịp này, ông được đọc những lời chia buồn thiện
cảm. Cũng vào năm 1954, Ernest Hemingway nhận được
Giải Thưởng Nobel về Văn Chương mà Hàn Lâm Viện Thụy
Điển đã trao tặng "vì thể
văn mạnh mẽ dùng trong nghệ thuật kể chuyện mới lạ
và thể hiện gần đây nhất qua tác phẩm "Ông Già và
Biển Cả".
Vào tuổi 60, chân dung của Ernest Hemingway với bộ
râu bạc trắng, đã xuất hiện trên nhiều tờ báo và
Hemingway vẫn còn là một con người mang nhiều sức
sống. Người ta đã thấy ông đá các lon bia trống
không lên cao trên con đường về nhà tại Ketchum
thuộc tiểu bang Idaho. Nhưng, Ernest Hemingway thực
ra không cảm thấy hạnh phúc. Ông đã điều trị và
dưỡng bệnh dài hạn tại bệnh viện Mayo, thuộc thành
phố Rochester, tiểu bang Minnesota. Ông bị ám ảnh vì
cao huyết áp và suy sụp tinh thần. Hemingway tự cảm
thấy không còn duy trì được thứ sức mạnh của nam
giới (the masculine vigor) nữa, một thứ hào hùng mà
ông hằng vui hưởng.
Vào buổi sáng Chủ Nhật, 2 tháng 7 năm 1961, Ernest
Hemingway thức dậy sớm trong ngôi nhà tọa lạc tại
một nơi vắng vẻ của thị trấn Ketchum, Idaho, đã nạp
đạn vào khẩu súng săn hai nòng, đặt báng súng trên
sàn nhà và đưa nòng súng vào đầu mình rồi bóp cò.
Nhiều người danh tiếng trên thế giới đã tự sát, để
lại mẩu giấy ghi rõ lý do, nhưng đối với Ernest
Hemingway, đã không có lời trối trăn nào ngoài hình
ảnh của các nhân vật trong nhiều cuốn tiểu thuyết mà
ông đã sáng tạo ra. Ernest Hemingway đã lập gia đình
bốn lần, khi qua đời để lại ba người con trai.
Ernest Hemingway dùng thể văn trong sáng, rõ ràng,
với các câu văn phần lớn gồm danh từ và động từ, rất
ít tính từ và trạng từ, lại dựa trên sự lặp lại và
nhịp điệu để gây ra ấn tượng tác dụng. Hemingway đã
mô tả một loạt các hành động bằng các câu văn ngắn,
đơn giản, không dùng tới các lời phê bình theo tình
cảm hay mang tính tu từ, ông tránh mô tả trực tiếp
các cảm giác và tư tưởng của các nhân vật trong
truyện và như vậy, tác giả chỉ cung cấp cho độc giả
các sơ liệu của kinh nghiệm mà không đề cập tới quan
điểm của người viết. Độc giả được cung cấp các tiếp
xúc sát với thực tế. Hemingway đã quan niệm rằng nhà
văn phải trình bày đề tài một cách chân thật do
chính mình tham dự hay quan sát đề tài thật gần và
cách làm như vậy mới chứng tỏ được hiểu biết chuyên
môn của tác giả. Ông cũng dùng thể văn đối thoại đơn
giản, tự nhiên và thể văn đặc sắc của Hemingway đã
được nhiều nhà văn bắt chước trong Thế Kỷ 20.
2/ Tác phẩm:
Novels:
The Sun Also Rises (1920)
The Torrents of Spring (1925)
A Farewell to Arms (1929)
Death in the Afternoon (1932)
Winner Take Nothing (1933)
Green Hills of Africa (1935)
To Have and Have Not (1937)
For Whom the Bell Tolls (1940)
Across the River and Into the Trees (1950)
The Old Man and the Sea (1950)
Adventures of a Young Man (1962)
A Moveable Feast (1964)
Islands in the Stream (1970)
The Dangerous Summer (1985)
The Garden of Eden (1985)
True at First Light (1999)
Collections
Three Stories and Ten Poems (poems) (1923)
In Our Time (1925)
Men Without Women (1927)
The Fifth Column and the First Forty-Nine Stories
(1938)
The Hemingway Reader (1953)
The Snows of Kilimanjaro: And Other Stories (1961)
The Nick Adams Stories (1972)
The Complete Short Stories of Ernest Hemingway
(1976)
Anthologies
Men at War: The Best War Stories of All Time (1942)
Non fiction
By-Line: Selected Articles and Dispatches (1967)
Selected Letters 1917-1961 (1969)
Hemingway on Fishing (2000)
Anthologies containing stories by Ernest Hemingway
Reading I've Liked (1946)
Short stories
The Snows of Kilimanjaro (1952)
Books about Ernest Hemingway
Ernest Hemingway and his World (1978) by Anthony
Burgess
|