Adieu tristesse
Bonjour tristesse
Tu es inscrite dans les lignes du plafond
Tu es inscrite dans les yeux que j’aime
Tu n’es pas tout à fait la misère
Car les lèvres les plus pauvres te dénoncent
Par un sourire
Buồn ơi vĩnh biệt
Buồn ơi xin chào [1]
Tên mi viết ở trần cao
Viết trong đôi mắt dạt dào ta yêu
Mi đâu hẳn nỗi khốn nghèo
Khi môi cằn ấy tố trêu
Nụ cười
Dùng câu thơ thứ nhì của Paul Eluard (bài À peine défigurée*, Hơi biến ảnh)
làm tựa quyển tiểu thuyết đầu tay, Françoise Sagan bất ngờ bước vào văn học
làm sững sờ thế giới, đã đi vào truyền thuyết và nửa sau thế kỷ XX chưa bao
giờ ra khỏi vinh quang. Sagan thường phàn nàn «Ngán chút thành công nhỏ nhoi
này mà thành điệp khúc suốt đời».
Sinh ngày 21 tháng 6 năm 1935 với tên Francoise Quoirez, tác giả Buồn Ơi
Chào Mi [2] chọn bút hiệu Sagan, từ nhân vật của Proust trong À la
recherche du temps perdu (Đi tìm thời gian đã mất) - một trong những nhà
văn tác giả ái mộ. Buồn ơi chào mi được hoàn tất trong bảy tuần lễ, đánh máy
với hai ngón, trong quán cà phê - chào đời trung tuần tháng ba năm 1954 buộc
giải băng mang giòng chữ «Quỷ trong tim » [3], tức khắc trở thành một trong
những best-sellers quan trọng sau chiến tranh[4]. Sagan không kịp ước mơ,
vinh quang đã ào đến. Tháng 5 được giải Critiques. Và quyển tiểu thuyết mỏng
manh chưa tới hai trăm trang được dịch ra 22 thứ tiếng - trong đó có Việt
Nam, Nguyễn Vỹ dịch năm 1959.
Mở đầu, truyện giới thiệu trực tiếp tâm trạng nhân vật chính ngôi thứ nhất:
«Thứ tình cảm xa lạ này mà sự phiền muộn, sự êm dịu không ngừng ám ảnh, tôi
ngần ngại đặt lên nó cái tên vừa đẹp vừa nghiêm trọng, là buồn. Đó là thứ
tình cảm trọn vẹn quá, ích kỷ quá đến nỗi tôi hầu như hổ thẹn, trong khi nỗi
buồn đối với tôi luôn luôn đáng kính. Tôi chưa hề biết buồn, chỉ biết chán
nản, hối tiếc, hiếm hoi hơn nữa là lòng ân hận. Hôm nay có gì lắng xuống
trong tôi như lụa, bải hoải dịu dàng, chia cách tôi với người khác.
Hè năm đó, tôi mười bảy hoàn toàn sung sướng. « Người khác » là bố và Elsa,
nhân tình của bố… » cùng với Anne đoan trang đứng đắn, bạn người mẹ quá cố.
Tôi - Cécile phóng khoáng tự do không chịu nổi Anne muốn hướng dẫn mình vào
con đường nghiêm chỉnh.
Biết bố có thể tính chuyện trăm năm với Anne, Cécile
sắp đặt cho Anne thấy bố đang âu yếm Elsa. Anne thất vọng phẫn nộ lao xe,
tai nạn, chết. Từ đó Cécile bắt đầu biết buồn, và Sagan bắt đầu thác loạn.
Vào Couvent des Oiseaux năm 1947, bị đuổi vì Sagan ngấy phải cố gắng, nhà
trường thì cho bà thiếu tâm linh. Hỏng tú tài năm 1951 sau khi đã tiêu trọn
một năm thưởng thức nhạc jazz ở Saint Germain des Prés, nơi sau này Sagan
gặp Jean Paul Sartre (hơn Sagan 30 tuổi) và gắn bó tình bạn bền bỉ. Sau đó
ghi tên học văn chương ở Sorbonne nhưng bỏ dở dang. Sagan mê văn, 13 tuổi
đọc Les Nourritures terrestres (Thực phẩm trần gian) của André Gide, 14 tuổi
đọc Albertine disparue (Albertine biến mất) của Proust, 16 tuổi đọc
Les
Illuminations (Những bản khắc màu) của Rimbaud, Sagan cho văn chương là tất
cả. Rồi đọc Camus, Sartre, Faulkner… và hiểu mình sẽ thiên về văn nghiệp.
1954 Sagan là quả bom văn chương nữ. Sau thế chiến thứ hai, các cô muốn
thoát khỏi ảnh hưởng gia đình, khỏi ảnh hưởng bà nội bà ngoại luôn áp đặt
mọi chuyện, ngay cả phải bận áo hoa xanh hoa hồng. Các cô bắt chước goá phụ
chiến tranh, bận màu đen. Sagan tung đúng lúc những gì trong thâm tâm các cô
chờ đợi, rao giảng bài học tự do, cao ngạo vượt khỏi mọi rào cản, trực diện
số phận. Buồn ơi chào mi là một cú bất ngờ đối với xã hội thời ấy bám riết
truyền thống xưa, quan niệm phải lập gia đình rồi mới luyến ái. Thuốc ngừa
thai chưa phát minh. Chuyện phá thai chỉ dành cho gia đình giàu có chạy qua
Thụy Sĩ giải quyết. Trai gái chỉ tán tỉnh nhau bằng mắt bằng lời. Tìm khoái
lạc là cái gì lạ lùng, Pétain cũng chống và De Gaule cũng chống. Thời De
Gaulle học trò còn bị cô thầy khẻ tay, trai muốn dụ được gái phải rất mưu mẹo
khôn ngoan, đừng hòng các cô dễ dàng quên đức hạnh. 1954 cũng là thời nước
Pháp mỏi mệt vì hai cuộc chiến tranh thuộc địa, Đông Dương và Algérie, dân
chúng chán nản hững hờ, luân lý chẳng ảnh hưởng gì tới nền chính trị bận
rộn. Về phương diện văn chương, Sagan là hiện tượng độc đáo lúc bấy giờ, vừa
ra khỏi hiện thực xã hội nhưng chưa có gì mới mẻ khác. Buồn ơi chào mi là «
vũ điệu trần truồng giữa căn nhà ngủ người lớn », đẩy sức sống thanh xuân
vừa vô luân vừa quyến rũ không cưỡng đuợc. Và cái quyến rũ này đã đưa văn
học Pháp cũng như thế giới ra khỏi cằn cỗi không mầm sinh mới, nó khiến cái
vô luân càng đáng yêu đáng tha thứ và khiến người muốn chỉ trích cũng phải
lựa lời. Vậy mà 3 năm trước đó Sagan đã viết hài kịch thất bại, vất sọt rác.
Người:
Khoảng 50 tác phẩm phần lớn là tiểu thuyết, nhân vật Sagan mang dáng
vẻ bè bạn chung quanh hoặc chính tác giả: giàu có, tự do, tìm vui trốn tránh
nỗi buồn, có thể giao du được, không đến nỗi táo bạo điên khùng, nhưng không
nhân vật nào của Sagan là huyền thoại. Ngược lại, cuộc đời tác giả là một
huyền thoại, ngoại hạng. Sinh trưởng trong gia đình giàu có và giáo dục tốt,
Sagan ngoan ngoãn nghe lời khuyên của bố « xài hết đi » số nhuận bút khổng
lồ đối với cây bút chưa tròn mười chín tuổi. Gì chớ tiêu xài thì Sagan đã
quá quen trong gia đình trưởng giả, và đó là điều Sagan áp dụng suốt đời.
Tóc vàng ngắn, mái xô lệch phủ trán, dáng yếu đuối, thuốc trên tay, nói
nhanh ngắt quãng, luôn luôn ánh mắt ngạc nhiên trẻ con, bất định… vẻ mong
manh bên ngoài ấy chứa đựng một đầu óc tự do, táo bạo, cực kỳ thông minh,
năng động, nổi loạn, bất chấp, độc đáo và được hầu hết mọi người yêu quý.
Thân thể dong dỏng đó cũng bền bỉ với cách sống bạt mạng: Sagan suốt đời ham
xe thể thao, thức đêm cờ bạc, rượu và ma túy, yêu cuồng sống vội, đủ món tứ
đổ tường, thích cười đùa, thích yêu, thích ái mộ, nói tốt người khác - nhất
là những người kiêu ngạo cô đơn không cần ai… Liều lĩnh phóng túng, thích
cảm giác mạnh, Sagan nói Những gì luôn luôn quyến rũ tôi là đốt cháy đời
tôi, say sưa, choáng váng. Sagan quan niệm trò may rủi giống như tốc độ,
thắng thua không quan trọng bằng cảm giác. Đó là nỗi đam mê có thể đưa mình
đi thật xa, là khoái lạc, là trò giải trí điên cuồng. Không gì giống tài
năng bằng may mắn. Sagan may mắn. Ngày 8 tháng 8 năm 1958, Sagan chơi bàn
quay đặt số 8, thắng 80 000 quan Pháp, đúng số tiền cần mua căn nhà đang
thuê vùng biển bắc. Rời sòng bạc, bà mang ngay đến chủ nhà, lúc đó 8 giờ
sáng- rồi vội vã ra về, dưỡng sức cho buổi tối. Bà sở hữu nhiều năm căn nhà
này, sau bán đấu giá qua cơn thiếu hụt, và cũng là nơi bạn cưu mang bà những
năm cuối đời, bịnh hoạn. Bà bị cấm tới lui những ổ chơi đen đỏ. Đã nhiều lần
tai nạn, và dù suýt chết nhiều lần nhất là năm 1957, Sagan vẫn thích lái xe
thể thao bất kể hiểm nguy, bà cùng một số ít bạn bè thân thiết rất gần gũi
tử thần.
Giữa quyển này quyển khác, giữa trang trước trang sau là những đêm trác táng
khói cần sa ma túy, là rượu ngon, là những đoạn đường rút ngắn xe thể thao
vun vút, sống chết đều vội vã hết mình. Sagan không chỉ là một nhà văn, mà
là một con người - một con người dám sống, đam mê mọi thói tật. Sinh trưởng
và sống trong của cải, Sagan tự cho mình có may mắn, nhưng không vì vậy mà
ôm giữ cẩn thận cái may mắn đó. Sagan sống tận cùng, phung phí sức lực và
tiền bạc có được, coi thường cái “liệu cơm gắp mắm” nên nhiều lúc đảo điên
vì túng bấn. Người ta không cần biết Sagan của Proust nữa dù là công chúa,
họ đã có một Sagan xương thịt, nhạy cảm sinh động, sôi nổi điên cuồng, hoang
đàng khả ái, hiện thân thời đại. Luôn luôn ham sống và ham viết, luôn luôn
yêu văn chương. Bà chẳng lưu tâm gì đến chính trị khiến Sartre tự hỏi mình
có quá chính trị không! Sagan đã giúp những năm cuối đời của Sartre vui vẻ,
bà chở Sartre trên xe phóng đi ăn đi chơi, và họ cười đùa vô tư như học trò.
Quyển Avec mon meilleur souvenir (Kỷ niệm đẹp nhất của tôi) ra năm 1984,
Sagan viết về Sartre lời lẽ trân trọng yêu qúy, kể lại những thông đồng giữa
hai tài danh thế kỷ XX, không khoe khoang, chỉ khiến người đọc thích thú say
mê trước đầu óc, tâm hồn và chữ nghĩa riêng của mỗi người.
Sagan là một Star thực sự, một hiện thân huy hoàng cho văn học Pháp, nẩy lửa
và u hoài. Là người trí tuệ, lễ độ, tế nhị, Sagan đưa ta vào căn phòng tưởng
tượng, hào phóng thảnh thơi. Mọi sinh hoạt của bà đã nuôi nhiều cột báo.
Người ta viết về bà hình ảnh tiểu thuyết gia ăn chơi, đi chân trần, phóng
xe, nhậu nhẹt. Nhưng Sagan bất cần những tò mò kiểu đó, và luôn luôn trả lời
minh bạch, thẳng thắn không gian lận về chính mình và thời mình sống.
Sagan có hai đời chồng, năm 1958 với éditeur Guy Schoeller lớn hơn 20 tuổi,
2 năm sau ly dị; 1962 bà tái giá và có con trai tên Denis, với Robert
Westhoff điêu khắc gia người Mỹ. Năm sau ly dị. Từ đó bà sống độc thân tới
khi chết.
Văn:
Sagan quan trọng hơn tác phẩm, nổi tiếng hơn các nhân vật của bà. Sagan
tiêu hao sức lực trong cái trái nghịch đời mình: sinh hoạt nhộn nhàng với xã
hội thượng lưu bên ngoài và nỗi cô đơn không cùng bên trong… Bernard Frank
(nhà văn, bạn thân của Sagan) cho rằng Sagan đẩy nhục cảm vào triết lý hiện
sinh, người khác bảo Sagan đặt “một chút mặt trời trong nước lạnh” (Tên
quyển tiểu thuyết khác của Sagan. Khi phim này chiếu ở miền Nam, dân VN thêm
“một chút mặt trời trong ly nước lạnh!). Thường những cuộc tình tay ba,
người tình tìm cách tự đày ải như chỉ có mình mới biết yêu thực sự. Nhân vật
cô đơn nhưng không om sòm về sự hiện hữu đáng lo âu của mình. Con người sống
qua ngày, chán chường, không mục đích, giải quyết nhàn cư bằng những mưu mẹo
tình trường, những hành vi táo bạo, lao mình vào cuộc truy hoan. Có lẽ Sagan
quen sống giàu sang, nhân vật bà chẳng quan tâm đến vật chất. Bà tô hoạ tình
cảm nhân vật như giới đàn anh tô hoạ cá tính. Sagan không phải tiểu thuyết
gia của cái sống bần hàn cực nhọc mỗi ngày, bà diễn tả nếp sống phơi phới tự
do khiến phát thèm ngỡ là tưởng tượng. Bà rất riêng lẻ trong thời ấy. Những
người quan niệm nhà văn phải im lặng đau khổ, viết nhưng đừng sống, thì
không ưa bà, cho văn bà là âm nhạc nhỏ “petite musique”, lối mỉa mai loại
văn không có gì đáng kể. Dĩ nhiên bị chê thì chẳng ai vui, ngay cả Sagan xem
đời là một cuộc chơi, bà tuyên bố Cứ nghe nói mãi về « âm nhạc nhỏ », tôi tự
nhủ « mang một ít Wagner vào đấy » . Bù lại, nhà văn Francois Mauriac,
(1885-1970: năm 1926 được giải nhất về tiểu thuyết Viện Hàn Lâm Pháp; 1933
được bầu vào Viện Hàn Lâm; 1952 được Nobel văn chương), được mệnh danh và
cũng tự nhận mình là « nhà văn Công giáo », gọi Sagan là “tiểu quỷ duyên
dáng”. Và Emile Henriot (1889-1961, nhà báo, nhà phê bình văn học, nhà thơ,
nhà văn, được bầu vào viện Hàn Lâm năm 1945) gọi Buồn ơi chào mi là “kiệt
tác nhỏ vô sĩ tàn ác”.
Văn Sagan thuộc loại cổ điển, câu ngắn, dễ dãi không trau chuốt bóng bẩy,
thẳng thắn, hờ hững bất cần, cá tính mạnh, nhẹ nhàng lịch lãm, chuyển tải
trực tiếp rung cảm của tác giả sang độc giả. Nhẹ như khói thuốc, khói cần sa
ma túy. Sagan chẳng tha thiết cái mới mẻ. Viết vì thích viết. Không phân vân
ba trăm năm sau có ai dư nước mắt khóc mình không, cái đó không ám ảnh bà.
Các nhà đạo đức lớn quan niệm viết là vẽ lại quang cảnh tinh thần, nhất là
tâm hồn mình. Sagan càng lúc càng đi vào hướng đó, có tài miêu tả những tiểu
tiết ít ai để ý với giọng phơn phớt, chủ yếu luôn luôn giải phóng ràng buộc
đạo lý. Sagan thành công phát hoạ thế giới nho nhỏ một nhóm người với giọng
châm chọc nhẹ nhàng luôn luôn chính xác, cùng lúc hư hư thực thực có chất
thơ, vui buồn lẫn lộn, nhiều khi khiến cuộc đời thành phi lý.
Sagan sống đời phong phú, xa hoa, trụy lạc, liều lĩnh, khi mạo hiểm cuộc
đời, mình tin chắc sẽ không mất nó, chính quan niệm sống này đã tạo huyền
thoại Sagan, là một trong số ít nhân vật gây được tĩnh từ do tên mình,
saganien, những kẻ theo Sagan, và saganesque, phong cách Sagan. Nhiều khi bà
viết theo đơn đặt hàng vì tiền nhuận bút đã lấy tiêu trước hết rồi. Có phải
nhà văn nào mỗi lần viết cũng nặn ra một tác phẩm lớn đâu, nên nhiều quyển
bị cho là hời hợt và về sau này người ta hầu như chẳng đọc Sagan, nhưng mỗi
quyển mới ra hay tái bản đều được báo chí và công chúng lưu tâm và bán chạy.
Có phải để trả giá cho tăm tiếng của bà?
Những năm 60 Sagan bước vào lĩnh vực sân khấu, vở Château en Suède (Lâu đài
ở Thụy Sĩ) nổi tiếng tương đương Buồn ơi chào mi trong tiểu thuyết. Thập
niên sau bà thử đạo diễn điện ảnh nhưng hoàn toàn thất bại. Thập niên 80, để
chứng tỏ cho người nói bà chỉ giam mình trong một môi trường, một thời đại
ngắn ngủi, là sai, Sagan cho ra đời tác phẩm dài hơi, như La femme fardée
(Người đàn bà dồi phấn), chuyến du thuyền sang trọng nhóm khoảng chục người.
Khi gặp cuồng phong, mỗi người lộ rõ chân tướng, cái nhỏ nhặt bủn xỉn cũng
như lòng bao dung vị tha… Hay De guerre lasse (Cuộc chiến chán chường), bối
cảnh 1942 tổ chức trốn Nazis… Chuyện tình tay ba sôi nổi nghịch cảnh.
Ba mươi năm sau Bonjour Tristesse, Sagan nói về văn bà: “Tôi hiểu rõ tiểu
thuyết của mình. Tôi chẳng có gì phải xấu hổ cả, đó không phải loại văn
chương tồi mà là việc làm lương thiện. Nhưng tôi biết đọc. Đã đọc Proust,
Stendhal... Những người như vậy sẽ làm bạn thôi khoác lác”.
Không biết những người không ưa thích Sagan vì bà khuynh tả, ủng hộ phe Xã
Hội dù không vào đảng, và là bạn thân của Tổng Thống François Mitterrand
(Sagan cho Mitterrand là người bạn lý tưởng, duyên dáng. Giữa nhà văn và
Tổng thống tình cảm nảy nở như cú sét, nuôi dưỡng bởi sự thông minh tuyệt
vời của mỗi người), hay vì thói hút sách. Bà đã nhiều lần bị án tù treo và
phạt vạ vì tiêu thụ và tàng trữ bạch phiến. Bà nói bà có quyền hủy hoại đời
mình miễn không hại ai, rằng pháp luật đặt ra là để thích ứng với con người
chứ không ngược lại… Bạn bà hầu hết tiếng tăm, đã ký tuyên ngôn ủng hộ Hãy
kết án chúng tôi cùng với Sagan. Bà quỵt thuế bị phạt 1 năm tù treo, bạn bè
và kẻ ái mộ phản đối: Sagan thiếu tiền nhà nước, nhưng nhà nước thiếu Sagan
nhiếu hơn nữa!
Về phần Sagan, với bản tính tự do bất khuất, năm 1960 đã ký Manifeste des
121 bảo vệ quyền không phục tùng, trong chiến tranh Algérie; năm 1971 ký
Manifeste des 343 ủng hộ nữ quyền tự do phá thai.
Ngoài giải Critiques tháng 5 năm 1954, năm 1985 Sagan được giải
Prince-Pierre-de-Monaco cho toàn bộ tác phẩm. Không được giải lớn lao nào
khác.
Sagan và Việt Nam:
Theo Nguyễn Văn Lục, HL 79, “Cuốn sách của Nguyễn Nam
Châu, Những Nhà Văn Hoá Mới đã mở cửa chào đón Sagan vào VN, từ đó mà Sagan
nổi tiếng”. Với bản dịch của Nguyễn Vỹ và nhiều bài báo viết về Sagan. Thời
đó báo thường đăng truyện mấy cậu ấm phóng xe “phom phom”, hút thuốc phì
phèo, vẻ cố tình lãng tử. Ảnh hưởng Sagan. Thật ra Sagan cũng chỉ nổi tiếng
trong phạm vi nhất định thế giới văn chương, trí thức và sinh viên. Nhưng
chính nhờ phim Bonjour tristesse,Otto Preminger thực hiện với các tài tử
Deborah Kerr, Mylène Demongeot và Jean Seberg, Sagan mới thực sự đi vào đông
đảo quần chúng. Vốn quen và yêu văn hoá Pháp, dân Việt Nam hân hoan ngỡ
ngàng đón nhận bầu không khí cực kỳ mới mẻ quyến rũ của Sagan. Quen với giáo
dục Khổng giáo, tinh thần tự do của Cécile gây thèm muốn nơi giới trẻ, các
cô muốn được cái bản lĩnh Sagan gợi ra mà không dám nói, cũng chẳng theo
được. Đó là những năm Hippy, những năm chiến tranh bắt đầu leo thang, sinh
viên kẻ còn nhà trường, kẻ ra chiến địa… Giới trẻ bị bế tắc. Sau lưng hãy
còn cụ Khổng, trước mặt là chiến tranh, họ lo “chạy trốn về phía trước”.
Hippy thì chỉ một số ít đua theo thời, cùng lắm cũng chỉ là ăn bận hoa hoè
kệch kỡm, tóc phủ vai, lê thê tụm năm tụm ba rồ xe máy ồn ào. Cái mới mẻ
Sagan bày ra cao cả hơn, lặng lẽ mãnh liệt, là một ước ao không dễ thực
hiện, kéo giới trẻ lên một cấp tư duy mới, suy nghĩ về mình, về người và về
chuyện sống còn. Và từ đó, Sagan nhập vào xương thịt, không nhắc và có thể
có người không biết Sagan, vẫn rất thường dùng tiếng “buồn ơi chào mi” trong
cả hai nghĩa: đón tiếp và từ giã nỗi buồn.
x
Mất ngày 24 tháng 9 năm 2004 vì nghẹt đường hô hấp, ngày 28 Sagan được chôn
cất trong nghĩa trang nhỏ gần làng sinh trưởng, nhiều nhân vật chính quyền
đưa tiễn tuyên bố ca ngợi tiếc thương. Nữ tài tử điện ảnh Brigitte Bardot
mỉa mai “vậy mà khi Sagan còn sống trong khó khăn thì chẳng ai cục cựa ngón
tay giúp đỡ!”.
Trong bài Gần xa, Sagan, nhà phê bình Đặng Tiến viết tại Việt Nam đối với
thế hệ thời 1954 thì “Sagan là gương mặt thân thuộc, thậm chí thân thương”.
Bởi vì dân Việt Nam đọc và sững sờ ái mộ. Bên Pháp giới phê bình và bảo thủ
sững sờ kết án. Giới trẻ hai nơi tôn bà thần tượng. Nhưng cũng như tại Việt
Nam, thế hệ sinh thập niên 60 -70 chẳng mấy ai đọc Sagan, dù vậy họ đều nhắc
đến Sagan với lòng trân trọng. Nếu người ta không đọc hay đã quên tác phẩm
viết của Sagan, không ai quên truyền thuyết về bà - người biết tạo nghệ
thuật sống cho riêng mình, trước hết là mình, thoát khỏi khung thời đại.
Dù những năm cuối đời túng thiếu bịnh hoạn, không bao giờ Sagan tỏ ý hối
tiếc về cách sống phóng đãng của mình, vẫn luôn luôn ham sống. Sagan đã tự
giới thiệu trong Tự Điển Văn học Hiện Đại Pháp như sau: “Chào đời năm 1954, quyển tiểu thuyết mỏng
Buồn ơi chào mi gây công phẫn cả thế giới. Sau
một đời và một tác phẩm vừa dễ chịu vừa cẩu thả như nhau, sự ra đi của tác
giả chỉ gây công phẫn cho chính bản thân tác giả thôi”.
Sự ra đi của Sagan gây công phẫn cho chính bà vì đến giây phút cuối cùng bà
vẫn không muốn chết. Người con gái trẻ tiền vô nhiều triệu dễ dàng và sợ
bóng đêm. Người đàn bà luống tuổi không xu dính túi đối diện với âm u huyệt
mộ. Dân Pháp xúc động ngẩn ngơ. Báo chí đã đổ bao nhiêu mực khi bà sống, thì
ngày bà nằm xuống mực cũng tốn rất nhiều thay nước mắt tiếc thương một con
người tài hoa, một con người rất thật.
Buồn ơi chào mi !
* À peine défigurée (trong tuyển tập La Vie Immédiate, 1935), nguyên văn và
dịch sát nghĩa
Adieu tristesse
Bonjour tristesse
Tu es inscrite dans les lignes du plafond
Tu es inscrite dans les yeux que j’aime
Tu n’es pas tout à fait la misère
Car Ales lèvres les plus pauvres te dénoncent
Par un sourire
Bonjour tristesse
Amour des corps aimables
Puissance de l’amour dont l’amabilité surgit comme un
monstre sans corps
Tête désappointée
Tristesse beau visage
Paul Eluard
Buồn ơi vĩnh biệt
Buồn ơi chào mi
Mi được viết trong các đường trên trần nhà
Mi được viết trong đôi mắt ta yêu
Mi không hoàn toàn là sự khốn cùng
Bởi đôi môi cằn cỗi nhất tố giác mi
Bằng một nụ cười
Buồn ơi chào mi
Mối tình của những thân thể đáng yêu
Mãnh lực của tình mà sự khả ái hiện ra
Như quái vật không thân thể
Với cái đầu chán nản
Và khuôn mặt đẹp nỗi buồn
__________________________________________________________________
[1] Tên bản dịch của Lê Huy Anh, 20 năm Văn học dịch, Nguyễn
Văn Lục, HL79
[2] Tên bản dịch 1959 của Nguyễn Vỹ, Nguyễn Văn Lục đã dẫn
[3] Có nhiều tên sách Quỷ Trong Tim, Diable au Coeur. Ở đây nxb muốn đồng
hoá trường hợp Sagan với nhà văn chết trẻ Raymond Radiguet (1903-1923), đã
xuất bản quyển Diable au corps, Quỷ Trong Thân vào năm 17 tuổi, chuyện tình
giữa cậu con trai và người đàn bà có chồng, lớn hơn cả chục tuổi. Quỷ Trong
Thân cũng gây sửng sốt hồi đầu thế kỷ, nằm trong Collection Les Grandes
Classiques.
[4] 8000 bản tháng 5-1954; 45.000 bản tháng 9; 100.000 bản tháng 10; 200.000
bản tháng 12 (1954). Năm năm sau, Bonjour Tristesse đã bán 4 triệu rưởi
quyển trên khắp thế giới (tại Hoa Kỳ 1 triệu). Hiện nay vẫn còn bán.
Các tác phẩm :
Bonjour tristesse (1954)
Un certain sourire (1955)
Dans un mois, dans un an (1957)
Aimez-vous Brahms ? (1959)
Les Merveilleux Nuages (1961)
Toxique (1964)
La Chamade (1965)
Le Garde du cœur (1955)
Un peu de soleil dans l'eau froide (1969)
Des bleus à l'âme (1972)
Il est des parfums (1973, cộng tác với Guillaume
Hanoteau)
Un profil perdu (1974)
Réponses (1975)
Des yeux de soie (nouvelles 1975)
Brigitte Bardot (1975)
Le Lit défait (1977)
Le Chien couchant (1980)
Musiques de scène (nouvelles, 1981)
La Femme fardée (1981)
Un orage immobile (1983)
Avec mon meilleur souvenir (1984)
De guerre lasse (1985)
La Maison de Raquel Vega (1985)
Sarah Bernhardt, ou le rire incassable (1987)
Un sang d'aquarelle (1987)
La Laisse (1989)
Les Faux-Fuyants (1991)
Répliques (1992)
...Et toute ma sympathie (1993)
Chagrin de passage (1994)
Le Miroir égaré (1996)
Derrière l'épaule (1998, biographie)
Kịch sân khấu
1960 - Château en Suède,
1961 - Violons parfois,
1963 - la Robe mauve de Valentine,
1978 - Il fait beau jour et nuit,
1987 - l'Excès contraire,
Phim ảnh
1961 : Aimez-vous Brahms ?
1963 : Landru
1970 : le Bal du comte d'Orgel
1977 : les Borgia ou le Sang doré
1977 : Les Fougères bleues
1985 :le Deuxième Couteau