Emile Zola

Vietsciences-Phạm Văn Tuấn                  22/09/2004
 

Những bài cùng tác giả

 Nhân đọc lại vài tác phẩm của Zola

Tấm gương Do Thái

Émile Édouard Charles Antoine Zola (1840-1902) nhà văn viết tiểu thuyết, nhà phê bình và viết tiểu luận, người bênh vực công lý và nhân vật văn học

«Je n'ai qu'une passion, celle de la lumière, au nom de l'humanité
qui a tant souffert et qui a droit au bonheur.»

 E  Emile Zola là nhà văn viết tiểu thuyết, nhà phê bình và viết tiểu luận, người bênh vực công lý và nhân vật văn học đã đưa trường phái Tự Nhiên (naturalism) trở thành một phong trào văn chương hàng đầu tại nước Pháp vào cuối thế kỷ 19. Các nhà văn tự nhiên đã mô tả đời sống vì các kinh nghiệm sống, do nhìn thấy tận mắt đời người, họ cho rằng các hành vi của con người là vì các bản năng di truyền, do môi trường xã hội và kinh tế và không phải bởi con người được tự do chọn lựa.

 

Emile Zola sinh tại thành phố Paris vào năm 1840, với tên đầy đủ là Émile Édouard Charles Antoine Zola, sống thời niên thiếu tại miền Aix-en-Provence thuộc phía nam của nước Pháp. Cha của Emile đột ngột qua đời tại Marseilles ở tuổi 51 khi cậu bé này lên 7. Ông Francesco Zola là một sĩ quan công binh gốc Ý và Hy Lạp, đã rời miền Venice của nước Ý khi sự áp chế của quân Áo lan tràn trên quê hương của ông sau khi Hoàng Đế Napoléon III bị thua trận. nhưng Emile vẫn sống với mẹ tại Aix-en-Provence. Mẹ của Emile là bà Emilie Aubert (Zola) thuộc một gia đình nông dân Pháp loại khá giả. Emile là con trai duy nhất trong nhà và hoàn cảnh bần hàn bắt buộc hai mẹ con phải dọn nhà lên thành phố Paris vào năm 1858. Các cuốn tiểu thuyết của Emile Zola đã mô tả nhiều cảnh cơ cực, nghèo khó với hai nhân vật là bà Chanteu và con trai Lazare trong cuốn "Vui Sống" (La joie de vivre) và nhân vật Félicité trong truyện "Bác Sĩ Pascal" (Le Docteur Pascal).


Tại thành phố đô hội Paris, cậu thanh niên Emile phải kiếm sống bằng nghề thư ký cho nhà xuất bản Hachette đồng thời viết các bài chính trị và văn học cho các tạp chí và vào giai đoạn này, Emile Zola làm quen được nhiều người danh tiếng, trong số này có Hippolyte Taine, một nhà triết học đã gây ảnh hưởng về nhận thức tính di truyền và tầm quan trọng của môi trường tới cách hành xử của con người.
Khi làm việc cho nhà xuất bản Hachette, Emile Zola được khuyến cáo không nên viết các bài báo hay cuốn truyện gây ra những vụ tranh cãi, hoặc bị cảnh sát của triều đình Pháp chú ý, vì vậy nhà văn này đã xin thôi việc để viết các bài phê bình cho một tờ báo mới là tạp chí "Sự Việc" (L'Evenement) của ông Villemessant. Trên tạp chí này và trên nhật báo Le Figaro, Emile Zola đề cập tới các giá trị thẩm mỹ của một trường phái hội họa mới cùng các họa phẩm của Edouard Manet và cũng từ nay, họa sĩ Manet đã là một người bạn thân của nhà văn Zola. Emile Zola còn có công trong việc tranh đấu cho trường phái hội họa Ấn Tượng, phá vỡ tập quán mỹ thuật cổ điển nhờ vậy dân chúng Pháp đã công nhận giá trị của các họa phẩm của Edouard Manet cùng các họa sĩ Ấn Tượng khác. Trường phái Ấn Tượng sau nhiều năm xuất hiện với các họa phẩm đặc sắc và khác lạ, đã được dân chúng công nhận vào năm 1874.
Năm 1864, Emile Zola cho phổ biến một tập các truyện ngắn có tên là "Chuyện Kể cho Ninon" (Contes à Ninon, 1864) và cuốn tiểu thuyết dài "Lời Thú Tội của Claude" (La confession de Claude, 1865), cả hai cuốn sách kể trên không được dân chúng chú ý. Qua năm 1867, Emile Zola viết ra cuốn truyện "Thérèse Raquin", đề cập tới sự dâm dật và vụ giết người, nên đã bị mang tiếng xấu và cuốn truyện này tạo nên nhiều trận công kích do các tờ báo đối nghịch khiến cho từ năm 1868 tới năm 1870, Emile Zola đã trả lời trên các báo Tribune, Rappel, La Cloche và Gaulois.
 Sau cuộc chiến tranh Pháp - Phổ năm 1870, do ảnh hưởng của bộ tiểu thuyết nhiều tập "Đời Người như Vở Kịch" (La comédie humaine, 1842-1848) của Honoré de Balzac, Emile Zola bắt tay vào viết một loạt truyện dài "Les Rougon-Macquart" với ghi chú là "lịch sử tự nhiên và xã hội của một gia đình trong Đế Chế Thứ Hai", tức là thời đại của Hoàng Đế Napoléon III (1852 - 1870). Qua các cuốn truyện này, tác giả bắt chước phương pháp khoa học bằng cách quan sát các nhân vật một cách khách quan, xét từng chi tiết dưới các điều kiện có kiểm soát. Tác giả muốn chứng minh rằng tính tình và hành vi của con người do di truyền và môi trường tạo nên. Ý tưởng này bắt nguồn từ nhà triết học và phê bình người Pháp Hippolyte Taine, nhà sinh học người Anh Charles Darwin và nhà khoa học người Pháp Prosper Lucas. Mỗi tiểu thuyết trong toàn bộ 20 cuốn mô tả các cuộc phiêu lưu của một hay nhiều nhân vật trong gia đình Rougon-Marcquart với các nét đặc thù khác nhau về nghề nghiệp và giai tầng xã hội.
 Tiểu thuyết đầu tiên của bộ truyện kể trên là cuốn "Tài Sản của gia đình Rougon" (La Fortune des Rougon, 1870) đã được nhiều người khen ngợi, kể cả nhà văn Gustave Flaubert. Sau đó 5 cuốn truyện khác đã xuất hiện trong thời gian 1881 - 1886 và các cuốn kế tiếp giữa các năm 1878 và 1893.
 Trong cuốn truyện thứ ba "Khu Chợ của thành phố Paris" (La Ventre de Paris, 1873), tác giả đã mô tả rõ ràng khu trung tâm của thành phố này. "Nana" (1885) là một khảo sát về nghề mãi dâm, đã gây nên tai tiếng khi được phổ biến.
 Bộ truyện "Les Rougon-Macquart" gồm nhiều tiểu thuyết xuất sắc nhưng có hai cuốn biểu hiện thiên tài của tác giả và được nhiều người coi là hai tác phẩm hay nhất của nước Pháp vào thế kỷ 19, đó là cuốn "Quán Rượu Thấp Hèn" (L'assommoir, 1877) và cuốn "Thợ Mỏ" (Germinal, 1885).
"Quán Rượu Thấp Hèn" là hình ảnh ghê sợ của các công nhân nghiện rượu trong thành phố, với nhân vật chính là Gervaise Macquart, người thợ giặt đàn bà sinh sống trong khu nghèo hèn, là người bị chồng bỏ rơi với hai đứa con không chính thức. Số phận đau thương của người đàn bà bất hạnh này khiến cho người đọc phải động lòng trắc ẩn.
Vào năm 1868 tức là vào cuối của thời Đế Chế Thứ Hai, Emile Zola đã chứng kiến và ghi chép các vụ đình công đẫm máu của các công nhân mỏ than tại Aubin và La Ricamerie thuộc miền bắc nước Pháp. Những người thợ này bị bóc lột cùng với chủ thuyết xã hội (socialism) đã khiến cho nhà văn Zola đề cập tới trong cuốn truyện "Thợ Mỏ" và ông đã so sánh cảnh giàu sang của gia đình Grégoire, chủ nhân, với các nỗi khổ cực của những người thợ bỏ xác trong các căn hầm tối tăm. Sự bi quan của tác giả vào cuối cuốn truyện đã nói lên các bệnh hoạn của một xã hội bóc lột và báo trước các cuộc cách mạng sẽ xẩy ra.
Tới năm 1894, đại úy Alfred Dreyfus gốc Do Thái trong bộ tổng tham mưu Pháp, bị tố cáo bán các tài liệu bí mật và làm gián điệp cho nước Đức, đã bị kết án và đầy đi tù trên đảo Devil. Vụ xét xử này gây nên nhiều nghi vấn về vấn đề kỳ thị người Do Thái và qua năm 1987, tờ báo Le Figaro đã phổ biến một bài báo của Emile Zola lên tiếng về vụ án kể trên.  Qua năm sau, 1898, tờ báo "Rạng Đông" (L'Aurore) công bố bức thư ngỏ "Tôi Tố Cáo" (J'acuse, 1898) của Emile Zola viết ngày 13 tháng 1, coi vụ xét xử kể trên là một hư thai của nền công lý (a miscariage of justice), vì thế tác giả bị gán cho tội phỉ báng vào ngày 23 tháng 2, bị kêu án 6 tháng tù giam và phạt vạ 5,000 quan tiền. Tác giả Zola phải bỏ trốn sang nước Anh trong một năm nhưng sau khi vụ xét xử được minh xác, ông đã trở về nước Pháp và được coi như một bậc anh hùng. Do vụ kiện này mà Emile Zola viết ra cuốn truyện khoa học giả tưởng "Sự Thật" (La Vérité, 1903).
 Emile Zola qua đời tại Paris vào ngày 29 tháng 9 năm 1903 do ngộ độc khí carbon monoxide. Các người dân của thành phố Paris đã đứng theo hàng dài hai bên đường khi linh cữu của nhà văn danh tiếng này đi qua.
 Các tác phẩm của Emile Zola đã phản ánh cuộc đời của nhà văn này. Trước hết là hoàn cảnh người cha qua đời khi cậu Emile còn thơ ấu, khiến cho gia đình này lâm vào cảnh túng thiếu. Cậu Emile không được cơ hội vui chơi nơi miền nắng ấm thơ mộng Aix-en-Provence mà phải theo mẹ và bà ngoại dọn về khu nghèo khó của thành phố Paris. Kinh nghiệm sống này đã khiến cho tác giả trở nên một bậc thầy trong cách mô tả cảnh nghèo khó của giới lao động. Tuy nhiên Emile Zola cũng quen biết giới tư sản do bởi nguồn gốc gia đình và đã từng làm việc với giới thương mại, giới luật sư... Sự hiểu biết về các giai tầng xã hội đã khiến cho tác giả linh cảm được cuộc cách mạng vô sản, ngoài những chuyện kể về cuộc cách mạng Pháp năm 1848, ngoài cách chứng kiến các buổi hội họp và đọc kỹ các tài liệu viết theo chủ thuyết xã hội.
 Mỗi cuốn tiểu thuyết của Emile Zola thường duy trì một biểu tượng (symbol) chẳng hạn như mỏ than là biểu tượng của tác phẩm "Thợ Mỏ". Thể văn của Emile Zola hơi nặng nề nhưng nhà văn này rất xuất sắc trong cách mô tả, đặc biệt về các đám đông. Các nhân vật trong nhiều truyện không phức tạp và hiện rõ trong các cảnh tàn phá và chết chóc.
 Emile Zola veit bộ tiểu thuyết thứ hai có tên là "Ba Thành Phố" (The Three Cities) và bộ thứ ba "Bốn Chân Lý" (The Four Gospels), bộ truyện này bị dang dở khi nhà văn đột ngột qua đời. Các tác phẩm phê bình, với chủ trương bênh vực trường phái Tự Nhiên (naturalism) gồm "Tiểu Thuyết Thực Nghiệm" (The Experimental Novel, 1880), "Các nhà tiểu thuyết tự nhiên" (The Naturalistic Novelists, 1881) và "Chủ nghĩa Tự Nhiên trong Kịch Nghệ" (Naturalism in the Theater, 1881).
 Qua cuộc đời và các cuốn truyện, Emile Zola đã chứng tỏ trí thông minh, lòng cảm thông trước công lý và lòng can đảm dám đứng lên bảo vệ các kẻ bị áp chế. Trong bài điếu văn, Văn Hào Anatole France đã ca ngợi Emile Zola là một "lương tâm của nhân loại"./.
 

© http://vietsciences.free.fr và  http://vietsciences.org Pham Văn Tuấn