Piotr Ilyich Tchaïkovski
(07/05/1840-06/11/1893) nhà soạn nhạc
thiên tài Nga
Xem video
Piotr Ilyich Tchaïkovski (
Пётр Ильич Чайкoвский) là một nhà soạn nhạc cổ điển
Nga thời kỳ lãng mạn, sinh ngày 25 tháng tư theo
lịch Julien (tức là 7 tháng
năm 1840 tại Votkinsk và mất ngày 25 tháng mười
(theo lịch
Julien)
tức ngày 6 tháng mười một 1893 tại St Petersburg.
Cùng với Rimsky-Korsakov, ông là một
trong những nhà soạn nhạc lớn nhất của
hậu bán thế kỷ
thứ XIX. Tchaïkovski là một nhà soạn nhạc rộng mở.
Tác phẩm của ông,
thấm nhuần tình yêu với
Mozart
và chịu ảnh hưởng từ
những nhà soạn nhạc nổi tiếng ở Tây Âu
hơn các
tác phẩm đương thời,
đặc
biệt là âm nhạc Pháp của Bizet và Saint-Saëns,
nhưng ông
phối hợp được âm điệu
các nước trên thế giới với âm điệu dân gian nước
Nga.
Tchaïkovski đã rút ra vẻ đẹp từ những nguồn cảm hứng
dân gian với thực tế.
Là nhạc trưởng tài ba, với một cảm giác tuyệt vời về
giai điệu, Tchaïkovski sáng tác được tất cả các thể loại,
đặc biệt là các bản nhạc giao hưởng (symphonies),
các tổ khúc (suites), ballets và
Concertos. Chính
ông đã đưa văn chương quí tộc vô nhạc ballet, thêm
một hướng giao hưởng mới cho vũ điệu mà trước đó
không được xem trọng.
Tchaïkovski được xem như là một trong những nhà soạn
nhạc lớn nhất trên thế giới.
Tiểu sử
Piotr đứng bên trái
Sinh ra từ một gia đình trưởng giả quí tộc cỡ nhỏ,
cuộc sống của ông là một chuỗi tương phản thường trực
giữa lối sống xa hoa với sự túng
bấn.
Tchaïkovski sinh ngày 7 tháng năm 1840 tại Votkinsk, một thị trấn nhỏ ở Oudmurtie
miền Oural, con trai thứ hai của Ilya Petrovich
Tchaïkovski, một kỹ sư mỏ, và Alexandra Andreïevna
d'Assier gốc Pháp.
Những nỗ lực đầu tiên về âm nhạc của Tchaïkovski
là những khúc ứng tấu trên
piano. "Tôi bắt đầu soạn nhạc khi tôi biết sự hiện
hữu của âm nhạc" ông nói. Thực vậy, chỉ mới bốn tuổi
khi cậu
cùng với em gái
Alexandra lúc đó mới lên hai,
soạn một bài hát
về mẹ,
khi bà đi Saint-Petersbourg vào tháng 9 năm 1844.
Bản nhạc có tên Mẹ chúng tôi
ở St Petersbourg. Sau đó mẹ
ông trở về với bà quản gia người Pháp
tên là Fanny
Durbach. Fanny ở bốn năm với gia đình Tchaïkovski,
"đó là thời gian hạnh phúc nhất đời
tôi", Fanny nói. Fanny đã bù
đắp cho Piotr sự thiếu thốn tình mẹ. Alexandra là
một phụ nữ không hạnh phúc, lạnh lùng, xa cách. Sau
này Modeste, em của Piotr kể rằng
hiếm khi mẹ bày tỏ tình cảm ấm áp. Bà tốt nhưng khô
khan.
Có lẽ đó là nguyên do khiến ông bị mê hoặc bởi số
phận những người đàn bà bị thất bại, đau khổ và
không may mắn (Romeo và Juliet, Francesca da Rimini,
Hồ Thiên nga).
Lúc bốn tuổi rưỡi, Piotr, luôn xin Fanny
được phép tham dự các bài học của anh chị. Vì vậy,
mới sáu tuổi, Piotr đã nói tiếng Pháp và tiếng Đức
dễ dàng.
Lúc năm tuổi cậu học piano với Maria
Paltchikova. Chưa tới ba năm sau, cậu
xướng âm hay bằng cô giáo. Thế kỷ
thứ 19, các gia đình khá giả gởi con của họ đến
những trường học đặc biệt để có một nền văn hóa rộng lớn, trong khi
đó chúng vẫn được học nghề riêng.
Anh cả của cậu, Nicolas, được gửi đến Viện Công nghệ Saint-Peterburg.
Năm 1850, lúc Piotr 10 tuổi, cậu chưa đủ tuổi để đi
học bất cứ trường nào, nên cậu vô trường nội trú học hai năm
để chuẩn bị. Đó là một kinh nghiệm đau khổ. Piotr yêu
mẹ và rất dễ xúc động. Cậu thiếu tự tin
muốn núp dưới bóng mẹ. Sự xa cách mẹ gây thương tổn
lớn vvậy mà chỉ bốn năm sau cậu đã
phải vĩnh viễn xa mẹ.
Âm nhạc
Âm nhạc là một phần trong chương trình học vấn của
Tchaïkovski. Cậu thường đi từ lớp học đến rạp hát và
opera. Piotr tham dự đội hợp xướng của trường và học
đàn dương cầm. Và kỳ lạ thay, cô giáo dạy đàn
của cậu chê rằng cậu không có khiếu.
Để giải trí với bạn bè, Piotr ứng tấu trên đàn piano
những giai điệu mà các bạn cậu hát. Cậu đặc biệt
thích đàn trên bàn phím phủ bằng một cái khăn.
Năm 1852, Piotr vô trường Cao đẳng
Luật Jurisprudence ở Petersburg, cách nhà 1.200 km.
Cậu học nơi này đến năm 1858. Nhà trường rất quan
tâm tới nghệ thuật. Các học
sinh có giờ học hát và chơi các dụng cụ âm nhạc khác nhau. Họ
thường xuyên đi đến nhà hát, rạp chiếu phim hay
concert.
Tháng Sáu năm 1854, lúc đó Piotr được
14 tuổi, mẹ bị
thổ tả và mất, làm cậu đau khổ vô cùng. Lúc bấy
giờ, có rất nhiều người bị chết vì đại dịch này.
Trong suốt hai năm, cậu viết thư kể cho Fanny
Durbach những mất mát lớn của mình. Piotr nhớ ngày đại tang đến suốt đời. Mẹ cậu đã luôn luôn
khuyến khích về sở thích âm nhạc của cậu và phản ứng
tức thì của cậu sau sự mất mát lớn đó, là
đến với âm nhạc. Cậu bắt đầu nỗ lực sáng tác thực
sự và riêng tặng cho bản valse Anastasie cho
em trai cậu và Fanny,
bà quản gia. Tchaïkovski bắt đầu hút
thuốc lá.
Piotr điều khiển môn soprano trong ban
hợp xướng của
trường, dưới sự chỉ đạo của Gavril Lomakin. Piotr
cũng đã từng hát
solo khi có lễ lạc. Cậu được
mọi người tán thưởng mặc dù thiếu trật tự và thường
hay đãng trí. Piotr nhận được một nền giáo dục tốt,
trong khi theo học chương trình giáo dục phổ thông,
cậu vẫn học piano. Ông hướng
hẳn về âm nhạc. Nhiều nhạc sĩ trẻ vừa sáng tác, vừa
hành nghề hoàn toàn trái ngược. Chẳng hạn Glinka làm việc tại
Bộ Truyền thông ; Borodine là nhà hóa học; Cui là kỹ
sư; Rimsky-Korsakov là một sĩ quan hải quân.
Trở về Petersbourg mùa thu, cậu bắt đầu đi học hát
với Gavril Lomakin, vừa là chỉ huy trưởng dàn nhạc nổi
tiếng vừa là giáo sư.
Năm1855, cha của Piotr cho con học với giáo sư dương
cầm nổi tiếng Rudolph Kündinger. Kündinger cho rằng
Piotr ngoài trí nhớ tốt, cái tai tốt, thì không có
gì đặc biệt để khiến Piotr sẽ trở thành một nhà soạn
nhạc giỏi, hay một nhạc sĩ dương cầm giỏi.
Nhờ Tchaïkovski, nền âm nhạc Nga tiến triển.
Vào thời
Tchaïkovski, âm nhạc không được coi là một
nghề đáng kính ở Nga. Âm nhạc chỉ
được xem như một giải trí khi rảnh rỗi cho con các
gia đình khá giả. Các bài hát dân gian của MOUJIK và
những bản hợp xướng là cốt lõi cho các nghi lễ Nga.
Có ít trường dạy âm nhạc tại Nga.
Âm
nhạc Nga tiến triển
dần trong suốt
cuộc đời của Tchaïkovski.
Năm 22 tuổi,
Piotr Tchaïkovski trở thành sinh viên chuyên âm nhạc.
Ông ghi danh vào Viện
Âm nhạc Nga như
thể
ghi
danh đại học. Sau khi đậu xong, ông chuyển đến
Moscou để giảng dạy tại Nhạc viện. Vào thời điểm đó,
ông làm thân với các nhạc sĩ khác: Nikolai
Rubinstein.
Ngay cả những người nổi tiếng cũng lo lắng .
Tchaïkovski sợ không dám điều khiển
dàn nhạc. Ông cảm thấy
một nỗi lo sợ
không thể giải thích nổi,
hình như đầu ông bị tách rời ra khỏi
cơ thể. Khi chỉ huy dàn nhạc,
ông phải dùng một tay giữ chặt cằm, còn
tay kia điều khiển. May thay cuối cùng,
ông đã khắc phục được.
Tchaïkovski rất thích sáng tác. Ông đổ hết
những khả năng của mình cho sáng tạo. Ông đau khổ
mỗi khi biết có người không thích
tác phẩm của mình bởi ông rất quan tâm đến
những điều người khác nghĩ về những công trình của
mình.
Khởi đầu sự nghiệp, Tchaïkovski làm nhà phê bình âm
nhạc cho một tờ báo tại Moscou nên ông đã phải đối mặt
với các nhạc sĩ và tác phẩm của họ vì những lời chỉ
trích của mình.
Bạn bè và những người hâm mộ Tchaïkovski
Khi Alexandra, em của Piotr, lập gia đình với người
trong họ Davidov, Tchaïkovski trở thành
bạn thân của gia đình
này. Chính ở nơi đây ông tặng tác phẩm
cuối cùng và lớn nhất đời mình
Piotr Tchaïkovski soạn nhạc kịch, nhạc cho ballet,
cho dàn nhạc, nhạc thính phòng, khúc khai tấu, nhạc
cho piano và những bài ca. Modest, em của ông thường
xuyên cung cấp ý tưởng cho ông. Tchaïkovski sử dụng
những đề tài dân gian Nga trong các tác phẩm của
ông. Piotr thích đọc sách. Một hôm, đại văn hào Leo
Tolstoy tới thăm, Piotr rất sung
sướng và hãnh diện được biết Tolstoy yêu nhạc của mình.
Năm 1876, bà
Nadezhda von Meck (1831-1894), một góa
phụ lớn hơn
Tchaïkovski 9 tuổi, giàu,
mê âm nhạc, đàn piano khá, có
11 người con, rất hâm mộ Tchaïkovski. Từ năm 1877 bà cấp dưỡng
mỗi năm 6000 rouble trong
suốt 13 năm liền để Tchaïkovski khỏi phải làm việc
cho Nhạc viện Moscou, dành hết thì giờ cho sáng tác.
Số tiền này rất lớn, bởi một công chức trung bình
chỉ chi tiêu mỗi năm từ 300-400 rouble cho gia đình.
Cũng trong năm này, Tchaïkovski ký tặng bản
Symphonie thứ tư cho bà von Meck. Họ
thường xuyên thư từ với nhau đến năm 1890 thì
Nadezhda không viết thư được nữa bì bà bị lao
đến thời kỳ cuối, tay bị liệt. Họ đã gởi cho nhau trên
1200 bức thư. Năm 1890,
Nadezhda von Meck gặp khó khăn về vấn đề tài chính
vì con trai cả ăn xài quá mức, và cũng vì Tsar
Alexandre III đã trợ cấp cho ông 3 000 rouble mỗi
năm nên bà không gởi tiền cấp dưỡng cho ông nữa.
Ngoài ra bà nghe những tin đồn về
chuyện ông đồng tính luyến ái làm bà quyết định cắt
đứt liên lạc với ông. Cũng có thể bà muốn gả một
trong các cô con gái của bà cho nhà soạn nhạc, nhưng
thấy dự định của mình không thành nên bà phải bỏ.
Tchaïkovski bị giáng một đòn nặng nề vể tài chánh
lẫn tinh thần..
Tháng
bảy năm 1877, Tchaïkovski bắt
đầu sống trong những thời kỳ đen tối nhất:
để "chữa
bệnh" đồng tính luyến ái của mình, ông nhận lời kết
hôn với Antonia Milioukova, một trong những học trò cũ
của ông khi cô này, vì yêu ông cuồng
nhiệt, đã hăm doạ sẽ giết
ông nếu ông không cưới cô ta. Nhưng cuộc hôn nhân là
một thất bại lớn. Antonina khiến cho Tchaïkovski và
chính bà cùng gia đình đều đau khổ. Liền sau đó,
Tchaïkovski không chịu nổi vợ, đã có ý định tự tử
bằng cách xuống sông Moskova
tắm vào một đêm đông để tự tạo cho mình chứng viêm
phổi. Sau vài tháng, ông chia tay với Antonia và cuối cùng bà
chết trong một bệnh viện tâm thần.
Pyotr Tchaïkovski ghi lại trong nhật ký một số quan
sát thú vị khác về các nhà soạn nhạc. Ví dụ
năm ông 32
tuổi và Saint-Saëns được 40.
Cả hai đều thực
hiện được một trong những tham vọng thầm kín của họ:
trở thành vũ công ballet. Họ tạo ra một nhạc khúc
ballet cho hai vũ công. Không có ai được mời xem họ
trình diễn, nhưng họ vui chơi một cách thích thú.
Nghề nghiệp
Tchaïkovski tốt nghiệp trường Cao
đẳng Luật ngày 25 tháng năm
1859, và được nhận làm chân thư ký cho Bộ Tư pháp.
Ông không quan tâm đến công việc của Bộ, và viết thư
tâm sự với em gái: "Họ bắt anh làm công chức, và là
một tên công chức tệ nhất nơi
này". Cuối
cùng, năm 1863, ngược với quyết định của gia đình,
ông đã bỏ việc để học âm nhạc dưới sự hướng dẫn của
Anton Rubinstein (1829-1894). Ông chơi piano, flute và đàn
orgue..
Năm 1866 Tchaïkovski được nhận làm giáo sư tại
Nhạc viện Moscou lúc ông vừa mới học xong âm nhạc.
Em của Anton Rubonstein, Nicolaï giao cho ông chức
giáo sư âm nhạc lý thuyết (mà ông tiếp tục dạy đến
năm 1878) trong một trường hoàn toàn mới tại Moscou.
Trường này từ năm 1940 mang tên ông,
Nhạc viện
Tchaïkovski. Chính trong
trong giai đoạn này ông sáng tác rất say mê
bản
giao hưởng đầu tiên mà ông đặt tên là "Giấc mộng mùa
đông". Làm việc quá mức khiến ông suýt bị bệnh trầm
uất. Làm bạn với những hội viên "Nhóm Năm người"
(1),
ông riêng tặng cho trưởng nhóm, Mili Balakirev, khúc
khai tấu Fantaisie ouverture Romeo và Juliet.
Tchaïkovski viết bài Symphonie thứ hai vào mùa hè
1872 và bắt đầu viết bản Concerto Si giáng thứ
đầu
tiên cho piano vào mùa đông 1874. Mùa hè
1875, ông
biết bản giao hưởng thứ ba.
Từ năm 1940 Nhạc viện Moscou mang tên
ông: Nhạc viện Tchaïkovski
Tuy vậy, ngay sau đó, ông cũng sáng tác nhạc cho vở
Ballet đầu tiên, Hồ Thiên nga, đã thất bại vì sự dàn
cảnh không thích hợp. Hồ Thiên nga là một vở kịch vũ
ballet gồm 4 màn, diễn tại rạp hát Bolchoï , Moscou ngày
4 tháng 3 năm 1877 dưới sự điều khiển của Semen
Riabov và nhà biên đạo múa Julius Reisinger. Âm nhạc
do Tchaïkovski biên soạn từ sách của Vladimir
Begichev kể về một huyền thoại Đức. Rủi thay, vào
thời đó, công chúng không quen với nhạc giao hưởng
cho ballet, không hiểu ý nghĩa của bản dàn bè, thêm
nữa, sự dàn cảnh của Julius Reisinger tệ đến nỗi
Tchaïkovski phải than là "một sự thất vọng nhục
nhã". Sau đó nhà hát Mariinski tại Saint-Petersbourg
phải bảo ông nhờ Marius Petipa và Lev Ivanov điều
chỉnh lại sự dàn cảnh và Riccardo Drigo, nhạc trưởng
của nhà hát Mariinski sửa lại bản dàn bè. Ngày 15 tháng Giêng 1895 vở Hồ Thiên nga được
thành công, sau 18 năm sửa đổi. Hiện nay, vũ ballet
Hồ Thiên Nga là tác phẩm nổi tiếng, được cả thế giới
yêu chuộng.
Vũ ballet
Hồ Thiên Nga
Tháng ba 1878, trong chuyến đi sang Thụy Sĩ, ông bị
bản Symphonie espagnole của Edouard Lalo quyến rũ và
quyết định soạn một Concerto cho vĩ cầm. Với sự giúp
đỡ của
nhạc sĩ vĩ cầm
Josef Kotek, ông học
thêm về kỹ thuật. Concerto được đề tặng cho Leopold Auer,
nhưng ông này từ chối vì nó quá rắc rối.
Năm
1881
Adolf Brodsky đàn solo cho bản
Concerto Ré trưởng cho violon đầu tiên.
Khoảng năm 1880,
uy tín
Tchaïkovski được nâng cao ở
Nga, và thậm chí tên ông đã bắt đầu được các nước
ngoài biết đến vì chính ông đã nhận thấy khi đi du
lịch sang các nước. Ông đoạt được nhiều thành công
và gặp các nhà soạn nhạc nổi tiếng cùng thời:
Johannes Brahms, Antonín Dvorák...
Ông vẫn thường
xuyên ở Paris và có thói quen đến ngồi quán Café de
la Paix.
Nhân chuyến du lịch sang Ý, cái đẹp
của thành phố này gây cảm hứng
cho ông. Ông sáng
tác một số nhạc kịch trong đó có
Capriccio italien, bản
Serenade nổi tiếng cho đàn dây và Ouverture
1812. Một năm sau,
Nikolai Rubinstein (1835-1881),
bạn thân nhất của ông mất. Xúc động
khôn cùng, Tchaïkovski soạn
Trio cho piano, vở nhạc kịch riêng tặng
cho người bạn đã khuất.
Viện bảo tàng Tchaïkovski
Tchaïkovski thuê một căn nhà
gần Klin, không xa Moscou. Nhà này trở thành viện
bảo tàng dành riêng cho ông. Ông soạn bản Manfred
(1885), Bản giao hưởng thứ 5 (1888),
bản ballet
thứ 2, Cô bé ngủ trong rừng
(1889), và một opera
dựa trên truyện ngắn của Pushkin: Đầm Bích ( 1890).
Năm 1891 ông du lịch sang Hoa Kỳ. Ông chỉ đạo các
nhạc sĩ biểu diễn các tác phẩm của mình cho lễ khánh
thành Carnegie Hall và đoạt được thành công lớn.
Thậm chí ông còn qua biên giới Canada để xem thác
Niagara..
Năm 1892, bản ballet thứ ba ra đời,
Casse-noisette (The Nutcracker),
nhưng không gặt hái thành công như ông mong đợi.
Phải mất nhiều thập kỷ để Nutcracker thành công. Bây
giờ nó là một trong những ballet được công chúng
tán thưởng.
Một thời gian ngắn trước khi ông chết, Tchaïkovski,
trong khi đi du lịch từ Berlin, ngang qua Paris và
dừng lại Montbéliard ngày 1 và 2 tháng một 1893 để
thăm Fanny Durbach (1822-1901) người quản gia ngày
xưa, khi về già, đã trở về quê hương mình.
Ngày 6 tháng mười một năm1893, chín ngày sau khi
viết bản Giao hưởng số 6, "Pathétique",
một tác phẩm mà ông để tất cả trái tim và tâm hồn
mình.
Tchaïkovski bị buộc phải tự tử?
Tchaïkovski chết vì bệnh dịch tả sau khi uống nước sông Neva
chưa được nấu chín. Tuy nhiên, có người nghi ngờ
nhưng không có bằng chứng, rằng sau khi khám phá
các mối quan hệ của ông với của người cháu trai vị
thành niên của một nhà quý tộc Nga, Tchaïkovski bị
tòa án danh dự buộc phải tự tử. (Đây là cốt truyện
của một cuốn tiểu thuyết của nhà văn hàn lâm Dominique
Fernandez). Dù sao đi nữa, tang lễ của Piotr Ilyich
Tchaïkovski cử hành tại tiểu bang St Petersburg
rất trọng thể,
có gần 8 000 người tham dự và
ông được chôn tại Tu
viện Alexander Nevsky, trong ngôi làng nhỏ
của nước Nga mà
ông yêu mến.. Mọi người đều tỏ lòng tôn kính một
nhạs sĩ thiên tài.
Tác phẩm của Tchaïkovski là một tổng hợp của nhạc
cổ điển
phương Tây và nhạc truyền thống Nga,
được giới
thiệu một cách hiện đại, với sự góp ý của Modest
Mussorgsky và Nhóm Năm người. Âm nhạc của ông phản
ánh tâm trạng vô cùng nhạy cảm, đảo lộn và riêng
tư của ông. Nó cần một sự phối hợp dàn nhạc thật
phong phú và đa dạng. Tchaïkovski là một trong những
nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất và chắc chắn ông là nhà
soạn nhạc Nga được biết nhiều nhất. Âm nhạc của ông
đã bay ra khỏi biên giới Nga và được cả thế giới
thưởng thức và ca ngợi.
Cuộc sống chao đảo của Tchaïkovski gây cảm hứng cho
Ken Russell dựng lên cuốn phim The Music Lovers
(1970). Tương tự, Klaus Mann viết cuốn tiểu thuyết
Symphonie pathétique (1935) đặc biệt dành cho ông.
Các tác phẩm
Ballets
Hồ Thiên nga, (Lac de cygnes)op.
20 (1875-76)
Người đẹp ngủ trong rừng (la Belle
au bois dormant), op. 66 (1888-89)
Casse-Noisette, op. 71 (1891-92)
Nhạc giao hưởng (Symphonies)
nº 1 Sol thứ:
Những giấc mơ Đông (Rêves
d’hiver), op. 13 (1866)
nº 2 Do thứ
: Nước Nga nhỏ (Petite
Russie), op. 17 (1872)
nº 3 Ré trưởng
Polonaise), op. 29 (1875)
nº 4 Fa thứ, op. 36
(1877)
Manfred, op. 58 (1885)
nº 5 Mi thứ, op. 64 (1888)
nº 6 Si thứ (Pathétique), op.
74 (1893)
Bản giao hưởng
mi giáng trưởng
(1891-1892, bỏ)
Nhạc mở màn (Ouvertures)
và các tác phẩm cho dàn nhạc (Opéra)
Cơn giông (L'Orage),
op. 76 (1864)
Nhạc mở màn fa trưởng
(1865, rev. 1866)
Nhạc mở màn
long trọng cho quốc ca Đan Mạch op. 15
(1866, rev. 1892)
Fatum, op. 77 (1868)
Roméo và Juliette (1869, rev.
1870, 1880)
Bão tố (La Tempête),
op. 18 (1873)
Hành khúc dân tộc Slave ( La
Marche Slave), op. 31 (1876)
Francesca da Rimini, op. 32 (1876)
Capriccio Italien, op. 45 (1880)
Khúc nhạc chiều cho đàn dây (Sérénade
pour cordes), op. 48 (1880)
Khúc nhạc mở màn (Ouverture)
1812, op. 49 (1880)
Hamlet, op. 67 (1888)
La Voïvode, op. 78 (1890-91)
Concertos
Concerto cho piano nº 1
Si giáng thứ, op. 23
(1874-75, rev. 1879 et 1889)
Khúc nhạc chiều buồn (Sérénade
mélancolique), op. 26 (1875)
Biến tấu trên chủ đề rococo (Variations
sur un thème rococo), op. 33
(1876)
Valse-Scherzo, op. 34 (1877)
Concerto cho vĩ cầm (Concerto
pour violon) Ré trưởng, op.
35 (1878)
Concerto cho dương cầm (Concerto pour
piano) nº 2 Sol trưởng, op.
44 (1879-80)
Buổi hòa nhạc độc đáo (Concert
fantaisie), op. 56 (1884)
Pezzo Capriccioso, op. 62 (1887)
Concerto cho dương cầm nº 3 Mi giáng
trưởng, op. 75 (1893)
Andante & Finale, op. 79 (1893)
Tổ khúc (Suites)
nº1 Ré thứ, op. 43 (1878-1879)
nº2 Do trưởng, op. 53 (1883)
nº3 Sol trưởng, op. 55 (1884)
nº4 Sol trưởng « Mozartiana », op. 61 (1887)
Tchaïkovski gom
góp 8 tiết mục trích từ vũ nhạc
ballet
Casse-Noisette của ông thành những tổ khúc cho ballet
Op. 71a (1892)
. Có những tổ khúc cho vũ ballet là Hồ
Thiên nga (tổ khúc 20a) và Người đẹp ngủ trong rừng
(tổ khúc 66a), nhưng những tổ khúc này không được
chính thức bởi chúng không được sưu tập
bởi chính nhà soạn nhạc cho dù ông đã có ý định làm,
và chúng chỉ được in
ra sau khi ông mất.
Nhạc thính phòng (Musique
de chambre)
Bộ tư đàn dây (Quatuor à
cordes) Si giáng trưởng
(1865)
Quatuor à cordes nº 1 Ré trưởng, op. 11 (1871)
Quatuor à cordes nº 2 Fa trưởng, op. 22 (1873-74)
Quatuor à cordes nº 3 Mi giáng thứ, op. 30 (1876)
Souvenir d’un lieu cher, op. 42 (1878)
Bộ ba cho dưong cầm (Trio
pour piano) La thứ, op. 50
(1881-82)
Kỷ niệm thành phố Florence (Souvenir
de Florence), op. 70 (1890)
Pièces pour piano
Tchaïkovski viết 100 vở cho
piano, mà
những vợ nổi tiếng nhất là Các mùa (Saisons)
op. 37a.
Nhạc cho màn kịch (Musique
de scène)
Snégourotchka, op. 12 (1873)
Nhạc
kịch (Opéras)
Tchaïkovski sáng tác 10 nhạc kịch
trong số đó hai bài nổi tiếng là
Eugène Onéguine và La Dame de
Pique (Đầm
Bích). Những
nhạc kịch khác của ông mặc dù rất ít được biết
(hiếm khi được trình diễn ngoài nước Nga)
nhưng phần đông đều rất hay.
Danh sách các nhạc kịch trình
diễn:
Le Voïevode 1869
Ondine Ундина Vladimir Sologoub
L'Opritchnik Опричник 1874
Vakoula le Forgeron
Eugène Onéguine Евгений Онегин 1879
La Pucelle d’Orléans Орлеанская дева 1881
Mazeppa Мазепа 1884
Tcherevitchki Черевички Iakov Polonski 1887 Moscou
L'Enchanteresse Чародейка 1887
La Dame de Pique Пиковая дама 1890
Yolande Иоланта 1892
__________
(1) Nhóm nhỏ nhưng mạnh, gồm nhạc sĩ
Mili Balakirev (1837-1910), trưởng nhóm và bốn
nhạc sĩ
|