Bach chào đời vào ngày 21/3/1685 tại
Eisenach, miền Thuringia nước Đức, là người
con út của ông Johann Ambrosius Bach và bà
Elizabeth Laemmerhirt. Vào năm 1695 do cả hai
cha và mẹ qua đời, J.S. Bach đã sống với
người anh cả tên là Johann Christoph Bach
(1671- 1721), một nhạc sĩ chơi đàn organ
tại Ordruf. Ông Christoph này là học trò
của nhạc sĩ sáng tác đàn keyboard tên là
Johann Pachelbel. Như vậy J.S. Bach bắt đầu
đi tới trường vào năm 1692 hay 1693 và đã
học các bài nhạc đầu tiên với người
anh cả, được học cách sử dụng đàn
clavichord, hapsichord và đàn vĩ cầm (violin).
Sự học của Bach khá tiến bộ, tới
năm 1700 nhờ giọng ca hay, Bach được chọn
vào ban hợp ca gồm các học sinh nghèo tại
nhà thờ Michaels ở Luneburg. Khi bị vỡ
tiếng, Bach tiếp tục sống tại Luneburg
trong một thời gian, thường vào đọc sách
tại thư viện của nhà trường, đây là nơi
có bộ sưu tập loại âm nhạc tôn giáo
rất đầy đủ và hiện đại. Có lẽ vào
thời gian này Bach cũng được nghe Georg
Boehm biểu diễn, ông này là nhạc sĩ đàn
organ của nhà thờ Johannis. J.S. Bach cũng thăm
viếng Hamburg để tham dự các buổi trình
diễn của nhà soạn nhạc và nhạc sĩ đàn
organ danh tiếng Johann Adam Reinken tại nhà
thờ Katharinen, nghe ban nhạc hòa tấu người
Pháp của Bá Tước Von Celle.
J.S. Bach trở về Thuringia có lẽ vào
cuối mùa hè năm 1702. Nhờ các kinh nghiệm
tại Luneburg, lúc này Bach đã là một nhạc
sĩ đàn keyboard có hạng, thường hay biểu
diễn nhạc tôn giáo. Ngoài ra, ông còn là
nhạc sĩ giúp vui cho giai cấp thượng lưu và
một nhà giáo dục âm nhạc. J.S. Bach không
chủ trương sáng tác âm nhạc cho hậu
thế, đã không cầu mong các tác phẩm của
mình được các nhạc sĩ đời sau trình
diễn.
Từ ngày 4/3/1703, Bach là
một nhạc sĩ trong ban nhạc hòa tấu của
ông Johann Ernst, Bá Tước miền Weimar rồi
từ năm 1703 tới 1707, được chính thức
bổ nhiệm làm nhạc sĩ xử dụng cây đàn
organ mới của nhà thờ Arnstadt thuộc miền
bắc xứ Thuringia. Vào năm 1707, J.S. Bach
kết hôn với cô em họ Maria Barbara, họ có
7 người con nhưng bà Barbara qua đời vào năm
1720. Trong số các người con này, 4 người
là các nhạc sĩ sáng tác danh tiếng.
Tại gia đình, J.S. Bach là một người
cha tận tụy nhưng khi ra ngoài xã hội, ông
lại là một người nóng tính khi gặp
phải sự chống đối hay bất tài của các
người khác. Tại các thị xã Anstadt và
Mulhausen, Bach đã cãi nhau với các ông chủ
rồi trở về miền Weimar vào năm 1708, làm
việc trong triều đình Saxe-Weimar trong 9 năm
với chức vụ nhạc sĩ đàn organ và nhạc
sĩ thính phòng. Nhiệm vụ của J.S. Bach là
sáng tác nhiều hợp khúc tôn giáo cantatas.
Chính trong thời gian này đã xuất hiện các
bản nhạc xuất sắc dùng cho đàn organ. Nhưng
Bach đã có lần cãi cọ với Bá Tước nên
rời triều đình này vào năm 1717. Từ 1717
tới 1723, Bach phục vụ Hoàng Tử Leopold
của xứ Anhalt-Cothen với chức vụ giám đốc
âm nhạc. Các công việc tại triều đình này
rất đơn giản, không đòi hỏi nhiều
nhạc tôn giáo vì vậy Bach có thể dành
thời giờ sáng tác các bản nhạc thế
tục dùng cho vài loại đàn phổ thông.
Vào năm 1721, J.S. Bach kết hôn với cô
Anna Magdalena Wilcken, một ca sĩ chuyên
nghiệp. Họ đã có thêm 13 người con. Trong
số 20 người con của Bach, 9 người đã
sống tới tuổi trưởng thành. Các người
con này đã giúp cha trong việc chép hàng trăm
bản nhạc cantatas dùng trong các buổi lễ
tại nhà thờ, cũng như vô số bản nhạc
khác dùng vào các dịp Lễ Giáng Sinh, Lễ
Phục Sinh, các lễ hội hay vào việc giảng
dạy âm nhạc tại các gia đình.
Tới năm 1723, Bach dọn nhà
về Leipzig và sống tại nơi đây tới
cuối cuộc đời. J.S. Bach là giám đốc
của trường âm nhạc St. Thomas, một nơi đào
tạo các nhạc sinh cho các nhà thờ của thành
phố. Từ năm 1740, Bach bị bệnh mắt nên
gần như bị lòa vào các năm cuối đời
rồi qua đời vào ngày 28 tháng 1 năm 1750 vì
bị xuất huyết não (stroke).
J. S. Bach là một nhạc sĩ đàn
organ xuất sắc, một bậc thầy về sáng tác
âm nhạc, một người đứng đầu về bộ
môn đối điểm của thời đại đó và cũng
là một nhà giáo dục âm nhạc có tài. J.S.
Bach còn là một tín đồ đạo Lutheran
thuần thành, có các cảm xúc tôn giáo
biểu hiện qua các sáng tác âm nhạc.
Giống như nhiều nhạc sĩ thời Baroque,
niềm tin và việc làm của Bach đều mang tính
cách tôn giáo bởi vì những người này cho
rằng loại tôn giáo này đã che chở cho con
người tránh khỏi bị các tư tưởng khoa
học, tìm hiểu duy lý của thời kỳ Phục
Hưng. Cũng vì Bach thường coi các tài năng
của mình là do Thượng Đế ban cho, vì
vậy ông ký tắt trên các sáng tác, ngay
cả trên các bản nhạc thế tục, bằng 3
chữ INJ có nghĩa là “sáng danh Chúa
Jesus” (In the Name of Jesus).
Các người đương thời thường
ngợi khen J.S. Bach là một nhạc sĩ đàn
organ có tài mà thường quên đi các sáng tác
âm nhạc của Bach, những công trình này
gồm 60 tập (volumes) nhưng chỉ có 9 hay 10
tập được xuất bản trong thời gian Bach còn
sống bởi vì vào thời đại này, người
ta cho rằng các bản nhạc của ông quá
phức tạp, họ ưa thích loại nhạc phong
đơn giản, sống động hơn. Tài năng sáng
tác của Bach chỉ được xác nhận đầy đủ
vào năm 1829 khi nhạc sĩ người Đức Felix
Mendelssohn khám phá ra bản nhạc “Nỗi
Khổ Cực của Thánh Matthew” (Passion
According to St. Matthew).
J.S. Bach không quan tâm soạn ra lý
thuyết âm nhạc cũng không thí nghiệm các
thể loại mới mà chỉ dùng các hình thức
âm nhạc đương thời, ngoại trừ thể
nhạc kịch (opera) nhưng tài năng của Bach
đã bao gồm một tầm rộng lớn, từ các
đối điểm phức tạp nhất tới các hợp
âm đơn giản. Bach cố gắng diễn tả cảm
xúc của bản nhạc, cho rằng mục đích
của âm nhạc là tạo nên một thứ ảnh hưởng
tác dụng (affect). Thứ ảnh hưởng này thường
được xác nhận ngay tại phần đầu của
bản nhạc rồi tới phần thân bản nhạc
trình bày các chi tiết. Đây là sự khác
biệt với các bản giao hưởng (symphonies)
của Beethoven trong đó bộc lộ rõ sự tương
phản về nhạc phong (style) và các nội dung
cảm xúc (emotional content) tại mỗi phần
của nhạc phẩm. J.S. Bach đã dùng một
loại tốc ký âm nhạc tại các hợp âm có
bè trầm (the bass part) được chỉ định
bằng các con số. Phương pháp này được
gọi là bè trầm ghi số (figured bass hay
basso continuo = bè trầm liên tục).
Trong các sáng tác, J.S. Bach cẩn thận
duy trì dài lâu phong thái âm nhạc (the mood)
để diễn tả đặc tính của bản nhạc, dài
lâu hơn các nhạc sĩ thời sau, kể cả
Beethoven. Bach thường hay trình bày lại
một giai điệu bằng cách bắt chước
(imitation), lặp lại giai điệu gốc bằng
một giọng cao hơn hay trầm hơn, và Bach cũng
dùng một nhịp không đổi. Các tác phẩm
âm nhạc của Bach hàm chứa sắc thái âm
nhạc quốc gia của thời đại, phần lớn
là Pháp, Đức, Ý và Anh.
J.S. Bach tin tưởng rằng nhờ âm
nhạc, ông có thể phục vụ nhà thờ,
cộng đồng và chủ nhân, vì vậy các sáng
tác của Bach không chỉ mang lại niềm vui
cho người nghe mà còn có giá trị giáo
huấn cho các nhạc sĩ trình diễn các bản
nhạc đó. Vào thời đại của Bach, ban
hợp ca thường nhỏ, gồm 12 người với
ban nhạc hòa tấu cũng nhỏ, vì vậy Bach đã
tập trung vào cách tạo nên một cảm giác
tinh thần hơn là dùng tới tính cách lớn
lao của ban nhạc như thời nay.
Các tác phẩm của J.S. Bach được
xếp đặt theo chỉ số BWV
(Bach-Werke-Verzeichnis) đặt ra do học giả
Wolfgang Schmieder, căn cứ vào loại âm nhạc
mà không theo thứ tự niên biểu. Nhưng
cuộc đời của nhạc sĩ J.S. Bach lại được
chia theo 5 giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại có
các đặc tính do nhiệm vụ của tác giả
phải hoàn thành.
1/ Giai đoạn thứ nhất (1703 – 1708):
gồm các sáng tác viết tại Arntadt và
Mulhausen. Những tác phẩm này chưa theo một
đường hướng nhất định mà chịu ảnh hưởng
của nhà soạn nhạc Dietrich Buxtehude, một
nhạc sĩ bậc thầy tại Lubeck. Hợp khúc
cantata mang tên Gottes Zeit, với chủ đích
của tác giả là để trình diễn tại các
buổi lễ an táng, là một sáng tác mạnh,
bộc lộ, của thời gian này.
2/ Giai đoạn thứ hai (1708 – 1717):
gồm các sáng tác viết tại Weimar với
nhiều hợp khúc cantata và các bản nhạc
rực rỡ dùng cho đàn organ, đa số mang
nhạc phong của miền Bắc Âu nhưng cũng có
một số tác phẩm phản ánh tính trong sáng
của loại nhạc Ý. Bản nhạc danh tiếng
“Toccata và Tẩu Khúc Rê thứ" (Toccata
and Fugue in D minor) được viết trong thời
gian này.
3/ Giai đoạn thứ ba (1717 – 1723):
gồm các sáng tác viết tại Anhalt-Cothen, đây
là những bản nhạc dùng cho nhạc cụ, trình
diễn độc tấu hay hòa tấu. J.S. Bach đã
hoàn thành vào năm 1722 Tập I của Tác
Phẩm “The Well-Tempered Clavier” (Bàn phím dùng
thang âm đều theo đó một quãng tám được
chia thành 12 bán âm (semitones) cách đều
nhau). Tập II được viết xong vào năm 1744,
mỗi tập gồm 24 bản dạo khúc (preludes) và
tẩu khúc (fugues) viết theo 12 âm giai trưởng
và thứ. J.S. Bach còn phổ vào trong các sáng
tác những bài thánh ca Lutheran, tập trung
trong cuốn “Sách Nhỏ Đàn Organ” (The
Little Organ Book). Sáu Concerto Brandenburg (six
Brandenburg Concertos) viết vào năm 1721 được
Bach đề tặng cho nhà cai trị của thành
phố Brandenburg. Bach cũng viết 4 tổ khúc
hợp tấu (4 orchestral suites) hay khai khúc
(overtures), 6 sonatas dùng cho đàn vĩ cầm độc
tấu (solo violin) và 6 tổ khúc (suites) dùng
cho đàn hồ cầm độc tấu (solo cello). Ngoài
ra còn có các “Tổ Khúc Pháp” (French
Suites) dùng cho đàn hapsichord. Cách viết
nhạc trong giai đoạn này cho thấy tác giả
đang tăng dần việc dùng đối điểm
(counterpoint) để thêm phần chất lượng và
cấu trúc cho tác phẩm.
4/ Giai đoạn thứ tư (1723 – 1745):
gồm các sáng tác viết tại thành phố
Leipzig. Đây là các tác phẩm chính dành cho
ban hợp ca và dàn nhạc hòa tấu (orchestra)
nhưng cũng gồm các bộ bản nhạc độc
tấu. Các hợp khúc cantata của Bach vào
thời gian này mang tính quy củ hơn các sáng
tác trước kia.
Ý tưởng của J.S. Bach muốn diễn
tả một câu chuyện bi hài mà không dùng sân
khấu hay các dàn cảnh, đã được thể
hiện qua bản nhạc “Nỗi Khổ Cực của
Thánh John” (The Passion According to St. John,
1723) và “Nỗi Khổ Cực của Thánh
Matthew” (The Passion According to St. Matthew,
1729). Các sáng tác này là các chuyện kể,
giống như hợp khúc “Coffee Cantata” (Thanh
Nhạc Cà Phê) có nội dung khác biệt với các
hợp khúc cantata tôn giáo. Loạt 6 cantatas
viết vào năm 1734 có tên là “Christmas
Oratorio” là các suy tư về Lễ Giáng Sinh hơn
là một câu chuyện về Lễ Giáng Sinh. Trong
các phân đoạn của các bản nhạc, J.S.
Bach thường dùng tới các giai điệu
(melodies) hay hợp âm (chords) để một tả
một sự việc (event) như lúc gà gáy sáng,
hay tình trạng được đưa lên thiên đường.
Qua bản nhạc “Thánh Lễ theo cung Si
thứ” (Mass in B minor), Bach đã dùng các hình
thức giống như nhạc kịch (opera) vào mục
đích tôn giáo, đã diễn tả ý tưởng toàn
cầu của tinh thần Thiên Chúa giáo. Tập
nhạc “Thực Hành Keyboard” (Keyboard
Practice) là cách phối hợp cách luyện tập
âm nhạc với việc thờ phượng. Tập
nhạc này gồm có bản nhạc “Concerto theo
nhạc phong Ý” (Concerto in the Italian style),
nhạc phẩm danh tiếng “Aria với 30 Biến
Khúc” (Aria with 30 Variations), còn được
gọi là “Các Biến Khúc Goldberg” (Goldberg
Variations) và 6 Partitas (biến đề) dùng cho
đàn hapsichord.
J.S. Bach đã cho thấy khả năng đưa các
loại sáng tác từ thuở ban đầu lên độ
hoàn hảo cao hơn, chẳng hạn vào năm 1723,
ông đã viết ra bản nhạc rực rỡ
“Magnificat” rồi 15 năm sau là tác phẩm
“Thánh Lễ cung Si thứ” rất danh tiếng.
Tập II của bộ sách nhạc “The
Well-Tempered Clavier” của Bach đã không trình
bày một cách hệ thống các cung như trong
tập I. Trong giai đoạn thứ tư này, Bach cũng
viết các concertos dùng cho 1, 2, 3 hay 4 đàn
hapsichords, với phần đệm của dàn nhạc.
5/ Giai đoạn thứ năm (1745 – 1750):
gồm 5 năm cuối đời của Bach. Các sáng tác
trong giai đoạn này thường dùng một giai
điệu nhưng trình bày rõ ràng đường lối
tổ chức với các tác phẩm chính là
“Nghệ Thuật của Tẩu Khúc” (The Art of
Fugue), “Các Biến Khúc Canonic viết cho bài
đồng ca Von Himmel hoch” (Canonic Variations on
the chorale Von Himmel hoch), “Dâng Cúng Âm
Nhạc” (Musical Offering). Riêng trong tập
nhạc “Nghệ Thuật của Tẩu Khúc”, chưa
hoàn thành nhưng gồm 18 phần, xếp đặt
theo độ khó tăng dần, với tất cả bản
nhạc được viết căn cứ vào một giòng
giai điệu.
Âm nhạc của J.S. Bach có nội dung
chuyển chở các ảnh hưởng (affects) tới
người nghe, giống như nhà hùng biện muốn
làm thay đổi ý định, thành kiến của các
thính giả. Như vậy một sáng tác âm nhạc
là một loại hùng biện về cung điệu (an
oration in tones). Nhà tiểu sử học đầu tiên
viết về Bach vào năm 1802 là ông J.N. Forkel
đã khen ngợi J.S. Bach không chỉ là một
nhạc sĩ sáng tác có tài, mà còn là
“một nhà thơ âm thanh và một nhà hùng
biện âm nhạc lớn bậc nhất, xưa và nay
chưa từng có”./.