Bố sống bằng nghề làm xiếc ngoài đường,
mẹ người Algérie hát dạo chẳng quan tâm gì đến con nên Piaf
được gửi gấm cho bà ngoại. Hai năm sau nhập ngũ, bố gửi Piaf
cho bà nội ở Normandie, vùng bắc nước Pháp, là tú bà. Tại
lầu xanh, con bé ngày ngày nhìn thấy những tấm lưng trần của
các ông chộp hôn gái làng chơi trong hành lang chật hẹp. Có
dạo nó bị đau mắt suýt mù. Dầu vậy Piaf được sống mấy năm êm
ả trong tình thương của các cô gái, hơn là tình thương của
bà nội. Sau chiến tranh bố trở về đem đi sống nay đây mai
đó bằng nghề nhào lộn ngoài đường. Để giúp bố, nó hát, và
kiếm tiền nhiều hơn trò xiếc sơ đẳng của bố. Từ từ, nó nhận
ra giọng đặc biệt của mình rồi đến năm 15 tuổi từ giã bố để
bay nhảy với đôi cánh riêng nhỏ bé.
Cô chọn khu Belleville và Pigale hát dạo, cô bạn thân
Momone đứng lấy tiền. Nếu Piaf lấy tiền thì ra vẻ người hát ăn xin, trong
khi người khác lấy tiền thì Piaf là nghệ sĩ. Năm 17 tuổi Piaf gặp người đàn
ông đầu tiên trong đời, năm sau sinh đứa con gái để rồi 2 năm sau nữa khóc
con, viêm màng não. Người đàn ông bỏ đi. Hai mươi tuổi, hầu như mồ côi,
Piaf bên bờ vực nghèo đói, sa sút tinh thần, nghiện ngập và suýt làm điếm.
Khu vực thường la cà hát kiếm tiền không phải khu tốt, là chỗ của các tay
anh chị với đủ kiểu làm ăn. Rồi định mệnh khiến một chiều năm 1935 Louis
Leplée, chủ phòng trà ca nhạc Gerny's đi ngang, sững sờ trước giọng ca độc
đáo, ông muốn thâu dụng cô. Gerny's là phòng trà sang trọng nằm trên Champs-Elysées, được mệnh danh đại lộ đẹp nhất thế giới. Chính Leplée đã đặt tên
Môme Piaf cho cô. Môme, tiếng gọi thân mật con bé, thằng bé,
Piaf là tiếng lóng, nghĩa là con chim sẻ, hạp với thân hình mỏng manh.
Giọng mạnh, khàn, rung rền, bình dân, đầy kịch tính rất hạp với nhạc Pháp,
đã chinh phục ngay khách của Leplée. Chỉ trong một tuần lễ, cả Paris đổ dồn
về Gerny's và Piaf được xem là một khám phá tuyệt diệu trong năm. Và dù ông
cố tạo cho Piaf môi trường sinh hoạt tốt, cô vẫn không từ bỏ thói quen chạy
về Belleville và Pigale gặp gỡ đùa nghịch với bạn bè, phần đông là dân anh
chị. Bản tính Piaf hồn nhiên ưa cười nói chọc phá với cá tính cực kỳ mạnh mẽ
ngang tàng, một con người hoang đàng rộng lượng hết mình, không thể khép vào
khuôn khổ.
Không may, tháng 2 năm 1936 Leplée giúp cô thâu đĩa 78
vòng thì tháng 4 ông bị ám sát tại tư gia. Vì không thường giao dịch với
giới sang trọng này nên Piaf bị điều tra rắc rối và báo chí nghiêm khắc khai
thác tối đa, bởi vì những người nhúng tay vào việc ám sát là dân tứ chiếng
khu Belleville-Pigale giống đám anh chị "bảo trợ" Piaf . Người ta tẩy
chay cô vì nghi chính cô hướng dẫn cuộc ám sát này. Vụ án chẳng bao
giờ được làm sáng tỏ. Nhưng chẳng bao lâu, nhờ Raymond Asso, kẻ phiêu lưu
và là cựu lính lê dương, rất yêu Piaf và hiểu rõ ưu khuyết điểm của nhân vật
duyên dáng bất trị, đã giúp cô trở thành tài năng mà sau này chúng ta được
biết. Từ đây con chim sẻ không được phép bay về tổ cũ đầy rác rưởi nữa,
cũng không muốn hát sao thì hát. Chính Asso với sự phụ hoạ kiên nhẫn của nữ
nhạc sĩ dương cầm Marguerite Monnot, đã luyện tập cho Piaf cách phát âm,
cách diễn xuất, ngay cả cách ăn mặc lên sân khấu. Với Asso, Piaf phải làm
việc, làm việc và làm việc. Và việc làm được thù lao xứng đáng. (Để diễn
xuất gần hệt Piaf mà không có vidéo Piaf hát các bản nhạc trong phim,
Marion phải làm việc nhiều đêm tìm điệu bộ diễn xuất, cách di chuyển thân
hình và lưỡi, cách ngắt hơi ... Và vì không dễ sống trong vai thần tượng độc
đáo một cách trọn vẹn, Marion đã mất rất nhiều thời gian để nhập vào và bước
ra khỏi Piaf).
Trưởng thành
Năm 1937, Môme Piaf vĩnh viễn trở
thành Edith Piaf, lúc này cô 23 tuổi, thành công rực
rỡ trên đường ca nhạc và đóng phim đầu tiên "La Garçonne"
(Cô gái phóng túng). Họ là tình nhân của nhau đến khi Asso
nhập ngũ. Ba năm sau Piaf gặp kịch sĩ Paul Meurisse trong
giới trưởng giả cốt cách, một người lịch lãm dè dặt khác với
một Piaf sôi nổi bộc tuệch. Trong hai năm tình nghĩa, chính
Paul đã dạy cô cách cư xử trong xã hội thượng lưu. Viện sĩ
Jean Cocteau (thi, văn, hoạ sĩ...) đã viết một vở kịch riêng
cho họ, diễn cảnh đời vợ chồng, vai đàn ông trầm lặng điềm
tĩnh khó lay chuyển. Với vở này, người ta chợt khám phá tài
năng phi thường của Piaf trong kịch nghệ. Và họ đóng chung
phim "Montmartre sur Scène" (Montmartre trên sân
khấu). Thời này Piaf là người được ưa chuộng của giới trí
thức Paris và hoàn toàn có bản lĩnh làm chủ nghệ thuật và
con người mình. Giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, đêm đêm
con chim sẻ vẫn cất giọng vàng, chinh phục không những con
tim dân sang trọng Paris mà cả con tim thế giới và đạt được
vinh quang tức khắc. Trong khi Pháp bị Đức chiếm đóng, dân
Paris quan niệm "phải học ngôn ngữ của kẻ thù" và bí mật
kháng chiến, Piaf vẫn hát không ngừng trong các vùng tự do,
cho cả dân bị trị và dân cai trị . Người ta trách Piaf nhất
là đã qua hát tận Bá Linh theo lời mời của Đức khiến sau khi
Paris được giải phóng, Piaf bị rất nhiều phiền phức.
Vào khoảng 30 tuổi, dày kinh nghiệm và không biết mùi
thất bại, Piaf giúp đỡ những người cô cho là xứng đáng. Vì vậy khi gặp
Yves
Montand cuối hè 1944, không những Piaf bị tiếng sét ái tình mà còn lo cho sự
nghiệp của Yves, từ tiết mục các bản nhạc đến tủ quần áo. Và năm sau họ cùng
xuất hiện chung trong phim Etoile sans lumière (Sao không ánh sáng).
(Về sau này tả trước công chúng về buổi gặp gỡ Piaf đầu tiên, Yves nói đã bị
choáng ngợp bởi lòng ngưỡng mộ tuyệt đối trước một Piaf trẻ đẹp tài hoa. Và
khi xa nhau, chính Yves là người đau khổ). Cho Yves, Piaf viết bài La
Vie En Rose (Đời màu hồng), một trong những bản nhạc của mọi thời đại đã
bay khắp thế giới. Hai năm sau, Piaf có dịp quen biết nhóm ca sĩ trẻ
Compagnon de la chanson (Bạn ca hát) và cũng như với Yves Montand, Piaf
tự thấy có trách nhiệm lo cho sự nghiệp họ và đề nghị thâu chung Les
Trois Cloches (Ba quả chuông), kết quả sét đánh, bán cả triệu đĩa. Piaf
quyết định dẫn họ cùng qua Mỹ trong vòng trình diễn đầu tiên của cô vào năm
1947.
Chuyến viễn du qua bên kia Đại Tây Dương là một thách
thức thực sự cho đứa con của Belleville. Những buổi trình diễn đầu tiên
trong các phòng trà ca nhạc New york không lôi kéo được sự quan tâm của dân
Mỹ chút nào bởi họ chẳng hiểu biết gì về nhân vật Piaf. Nhưng tình cờ đọc
được bài phê bình cực kỳ khả quan trên một tờ báo lớn ở đây, Piaf quyết định
ở lại dù ngày trở về Âu Châu đã định. Cô ký hợp đồng hát 1 tuần cho
Café Versailles, phòng trà rất chọn lọc ở Manhattan. Thành công rực rỡ.
Thay vì về Âu châu, cô ở lại New york 4 tháng, và các năm sau thường quay lại
chốn này.
Tình yêu và vinh quang
Chuyến đi lịch sử trên đã vô tình thay
đổi đời Piaf bởi 2 cuộc gặp gỡ quan trọng. Một với Marlène
Dietrich, nữ ca kịch sĩ, họ trở thành bạn thân và giữ liên
lạc với nhau đến ngày Piaf chết. Chính Marlène dạy Piaf
tiếng Anh và rất nhanh, Piaf đã có thể nói và hát thứ tiếng
ngoại quốc này. Và nhất là, hai, Piaf yêu điên cuồng vô địch
thế giới đánh bốc Marcel Cerdan, cũng người Pháp đang ở New
york, mà cô đã gặp lần đầu tiên ở Paris trong phòng trà rất
thời thượng Club des Cinq (Câu lạc bộ 5 người). Lần
đó chỉ là cái bắt tay, không tiếng sét, không tiếng lòng.
Rồi mỗi người một nghiệp bay đi chinh phục Mỹ châu với đôi
cánh thiên thần của mình. Và định mệnh cho họ gặp lại nhau
trong thành phố New york rộn ràng để yêu nhau cuồng nhiệt. Cô
ca sĩ mảnh khảnh với giọng ca vang dội tiếng chuông đồng và
anh lực sĩ to như gấu với tiếng cười dòn dã sảng khoái có vợ
bốn con được mệnh danh "Vua đánh bốc,
nữ hoàng ca sĩ ",
làm tổn hao bao nhiêu giấy mực và được xem là mối tình lãng
mạn danh tiếng nhất thế kỷ. Cả hai đều nổi tiếng thế giới
nhưng khác ngành nhau một trời vực. Trong 2 năm, Piaf và
Cerdan sống với nỗi đam mê không ai sánh kịp. Họ như mọi
người, yêu nhau như mọi người, nhưng khác hẳn mọi người. Với
Marguerite Monnot, Piaf viết L’hymne à l’amour (Thánh
ca tình yêu) cho anh, một trong những bài nổi tiếng nhất và
được hát nhiều nhất. Người ta còn giữ lại hình ảnh Piaf nhỏ
bé với chiếc áo đen ngập tràn ánh đèn sân khấu đang diễn tả
mối tình vĩ đại đời mình.
Nhưng cái chết bất ngờ của Cerdan tối 27 rạng ngày
28-10-1949 trên chuyến bay Paris-Newyork đã biến câu chuyện tình tuyệt vời
thành thảm kịch. Muốn được gặp nhau càng sớm càng tốt, Piaf điện thoại bảo
Marcel hãy lấy máy bay thay vì tàu thủy, bởi vì cuộc hành trình kéo dài lâu
quá sẽ giết cô chết mất, trong khi cô mỏi mòn ngóng đợi từng giây. Cho đến
lúc đó, hàng không Constellation chưa hề có vấn đề. Nhưng chuyến bay mang
Marcel Cerdan đến cho Piaf đã bị nạn trên không phận Açore lãnh thổ Bồ Đào
Nha. Sáng ngày 28 tháng 10 thức dậy nhận hung tin, Piaf không tin, mở cửa
từng phòng tìm kiếm vì rõ ràng anh vừa về, cô mới pha cho anh ly cà phê hãy
còn nóng hổi trên giường. (Chỗ này trên màn ảnh không còn âm thanh, chỉ một
Piaf gào Marcel, Marcel, Marcel... và như không biết phải làm gì,
những ngón tay rất đẹp co duỗi quýnh quáng. Cánh cửa cuối cùng cô mở dẫn
thẳng ra sân khấu, khán giả đang im lặng chờ đợi, ánh sáng rực rỡ trước mặt,
khán giả xem phim chỉ thấy phần lưng mỏng manh, tối đen...). Thực tế ngoài
đời, đêm ấy Piaf có chương trình trình diễn. Khóc suốt ngày rồi ban đêm, một
Piaf nghị lực phi thường ra sân khấu. Nhưng hát đến bài thứ 6 thì Piaf bật
khóc ngất xíu. Đó là bài Le chant d’amour (Ca khúc tình yêu) Nếu
bạn muốn nghe/ Tôi sẽ hát một tình khúc/ Một tình khúc thật tầm thường / Cho
đôi tình nhân yêu nhau / Nếu bạn để tôi kể / Chuyện tình đẹp như mơ / Vậy
hãy để tôi hát... Cái tang này đã khiến Piaf triền miên suy sụp tinh
thần cho đến mãn đời, không vươn lên nổi. Vốn bản tính hay tin “thế giới bên
kia", Piaf lao vào những trò thần bí ngay cả thuyết thông linh, thường tới
lui các ông bà "thầy" chỉ để nghe họ lặp đi lặp lại từng đó chuyện chẳng đâu
vào đâu nhưng có thể giúp an lòng Piaf. Cả tuần không ăn uống, Piaf chỉ muốn
một điều duy nhất: Marcel của cô trở lại. Cô bạn thuở hát dạo Momone phải
học cách làm cái bàn di chuyển, và khuyên Piaf ăn uống. Tin đó là lời Marcel
sai khiến, Piaf chịu ăn, đến nghẹn cổ mới thôi.
Dầu vậy cô vẫn không ngừng làm việc và trình diễn với một
ý chí siêu phàm. Lúc này tài tử kiêm nhạc sĩ trẻ Charles Aznavour (hiện còn
sống, rất được dân Tây cưng, gọi là Petit Charles-Charles bé, để phân
biệt với Tổng thống Charles De Gaules là Grand Charles-Charles lớn)
trở thành kẻ đồng hành đặc biệt: thư ký riêng, tài xế, bạn tâm sự... Và đây
là người duy nhất có liên hệ chặt chẽ thân thiện với Piaf mà không phải tình
nhân. Từ lâu Piaf đã giúp Charles hoàn chỉnh khi lên sân khấu, nhưng không
chủ động lèo lái như đối với Yves Montand hay nhóm Bạn Ca Hát, mặc dù
Charles đã viết cho cô nhiều bản nhạc rất thành công.
Năm 1951 Piaf cặp với Eddie Constantine, ca sĩ diễn viên
trẻ người Mỹ gốc Hy lạp. Cùng diễn vở nhạc kịch "La p’tite Lili"
(Con bé Lili), áp phích kéo dài 7 tháng chưa kịp tháo xuống thì họ đã chia
tay. Năm ấy Piaf bị 2 tai nạn xe hơi, lần thứ 2 suýt chết phải nằm liệt
giường rất lâu và chích mọc phin. Thêm với rượu, mọc phin đóng vai trò tàn
hại sức lực Piaf vốn đã mong manh.
Rồi duyên nợ dẫn Piaf gặp và làm đám cưới với ca nhạc sĩ
nổi tiếng Jacques Pills năm 1952. Họ ở trong căn hộ ở Paris mà Piaf giữ cho
đến ngày nhắm mắt. Trong giai đoạn này Piaf theo nhiều đợt giải độc. Dù bị
rượu và mọc phin tàn phá, thời gian này Piaf lên tuyệt đỉnh vinh quang nghệ
thuật, đĩa thâu hay các buổi trình diễn đều thành công ngoại hạng. Giới thân
cận che giấu báo chí tình trạng sức khoẻ của Piaf, cô ẩn dật nhiều tháng
trời trong 2 năm tiếp đó, giữa các chuyến viễn du New york-Mexico-Rio-Paris. Đi để khuây khoả hình ảnh con ma Marcel không bao giờ rời. Đi
để quên những ngày hạnh phúc trong 2 năm, quá dài và quá ngắn. Đi để bàng
hoàng nhận ra rằng trong mọi vòng tay đàn ông, không vòng tay nào vững chải
mạnh mẽ và êm ái như vòng tay người đanh bốc. Chỉ đến năm 1955 khi biết sẽ
hát ở Olympia, phòng trình diễn tầm cỡ tiếng tăm nhất Paris, Piaf
hoan hỉ tìm lại sinh lực làm việc mặc dù sức khoẻ hết sức tàn tạ. Và vinh
quang rực rỡ với giọng mạnh mẽ truyền cảm làm rối loạn lòng người, trước
khán thính giả chọn lọc sành điệu thủ đô. Nơi đây Piaf có dịp trở lại nhiều
lần. Rồi Piaf lại dọc ngang nước Mỹ với chương trình rất nặng. Cuối cùng
chấm dứt tại New york vào đầu năm 1956 với buổi trình diễn 22 bài tại thính
phòng Carnegie Hall, 10.000 vé bán ra, là ca sĩ tạp diễn đầu tiên hát
tại "miếu đền" nhạc cổ điển này. Thành công tột đỉnh. Piaf thực sự nghiễm
nhiên bước vào danh sách ngôi sao quốc tế. Con đường thênh thang.
Nhưng nếu đường sự nghiệp suông sẻ rực rỡ bao nhiêu thì
đường tình duyên truân chuyên khập khiễng bấy nhiêu: năm 1956 Piaf ly hôn
với Jacques Pills. Sở thích của Piaf là nắm vận mạng đàn ông, dạy dỗ
rồi biến họ thành ngôi sao nghệ thuật. Ca nhạc sĩ Georges Moustaki cùng
Marguerite Monnot viết cho Piaf ca khúc "Milord" nằm trong danh sách
những bài hát thành công nhất của cô, cũng không thoát khỏi luật lệ này. Cả
hai đều cá tính độc đáo mạnh mẽ nên thành tình nhân, họ sống những ngày nhộn
nhịp náo động và cùng bị tai nạn xe hơi thập tử nhất sinh mùa thu 1958, bị
gãy 3 xương sườn, làm giảm thiểu sức khoẻ vốn đã bệ rạc của Piaf. (Đoạn này
màn ảnh tối đen, âm thanh chỉ còn tiếng mưa tầm tã. Bỗng tiếng va chạm chát
chúa của sắt thép, tiếng kính bể sắc sảo loảng xoảng... Không một tiếng kêu
của người bị nạn). Đầu năm sau đang trên đỉnh vinh quang ở New york, Piaf xỉu
trên sân khấu phải đưa vào bịnh viện mổ cấp cứu. Piaf trở về Paris trong
tình trạng thảm thương. Moustaki bỏ đi. Piaf sống vật vờ, yếu lả, bịnh
hoạn...
Cho đến một ngày nhạc sĩ trẻ Charles Dumont đem bản "Non
je ne regrette rien" đến, mới chỉ hát trình diễn vài câu, Piaf bảo ngừng
"Tôi sẽ hát bài này. Đó là đời tôi". Và mấy tháng sau, đầu năm 1961,
mặc dầu sức khoẻ tồi tệ vì thuốc men và các lần mổ xẻ, Piaf không nghe lời
ngăn cản của bác sĩ và người thân cận, vẫn giữ lời hứa với người bạn giám
đốc Olympia, hát để cứu phòng trình diễn đang trên đường khánh tận. Và thắng
lợi rực rỡ với giọng ca vượt thời gian không ai sánh nổi, đã rút hết gan
ruột diễn tả nỗi lòng mình, để nói mình không có gì hối tiếc. Một Piaf đau
đớn kiêu hãnh phân trần, đang tự nhủ chính mình và hứa hẹn với mọi người...
Cả nước Pháp xúc động. (Ai cũng thích bài hát này, nhưng xem phim mới thấy
thấm thía Piaf trình diễn trong tâm trạng thế nào. Khán giả trên màn hình há
hốc, sửng sốt, bị thôi miên. Khán giả trong rạp xi nê lặng lẽ chặm mắt. Hai
loại khán giả cùng một nỗi niềm: xúc động cực độ và thương cảm vô cùng người
đàn bà bé nhỏ có cuộc đời nổi chìm ngoại hạng).
Cuối đời
Mùa hè 1961, Piaf gặp và yêu người đàn
ông cuối cùng trong đời, cũng là người cuối cùng Piaf lăng
xê: ca sĩ Theophanis Lamboukas gốc Hy lạp mà Piaf gọi thân
mật Sarapo. Tháng 6 Piaf nhận giải đĩa hát của
l’Académie Charles Cros (Viện Hàn Lâm Charles Cros) cho
toàn bộ sự nghiệp. Cuối năm, nữ nhạc sĩ dương cầm Marguerite
Monnot tạ thế, Piaf mất thêm một người thân. Tháng
9-1962, Piaf hát lần cuối ở Olympia với chương trình chỉ gồm
những bản nhạc tâm tình và ngày 25 từ trên cao tháp Eiffel,
Piaf hát cho phim Le Jour Le Plus Long (Ngày dài
nhất) lần chiếu ra mắt đầu tiên, bên dưới hầu hết là tài tử
ngẩng đầu nhìn lên. Đêm đó, Piaf hát cho cả Paris phủ phục
dưới chân mình.
Đầu tháng 10, Piaf làm đám cưới với Sarapo. Tháng 2-1963
họ cùng trình diễn bài A quoi ça sert l’amour? (Tình yêu ích gì?).
Chẳng ích gì vì quá trễ rồi: 2 tháng sau Piaf rơi vào tình trạng hôn mê. Mỗi
khi chợt tỉnh giữa hai lần hôn mê nhìn thấy Sarapo chăm sóc bên giừờng bịnh,
Piaf nói chẳng khác nào con trai săn sóc mẹ già, vì Piaf lớn hơn
những 20 tuổi. Vậy thì tình yêu ít nhất cũng có ích vào chuyện chăm sóc nhau
những lúc cuối đời.
Vĩnh biệt ngày 10-10-1963, thi hài Piaf được kín đáo mang
về Paris và công bố ngày 11, cùng ngày với bạn thân Jean Cocteau. Hai người
rất yêu quý nhau nên thiên hạ gọi "vợ chồng trong cái chết". Bà được
an táng tại nghĩa trang Père La Chaise với cả Paris đưa tiễn. Trong 2 ngày,
từng hàng dài người ái mộ đến phúng điếu. Họ tha thứ cho cuộc đời không lấy
gì gương mẫu của bà và giữ lại cái tài vô hạn với lòng tôn kính biết ơn "con
bé ngoài đường". Người ta tự hỏi không biết nếu nhạc sĩ Charles Dumont
soạn bản Non je ne regrette rien sớm hơn vài năm, có thể cứu giúp
Piaf khá hơn không? Piaf viết lời (có khi cả nhạc) cho khoảng 80 bản nhạc,
đóng nhiều phim và kịch.
Trong đống giấy tờ, người ta tìm thấy lá thư lạ lùng như
sau không bao giờ gửi:
"Tôi không sợ chết. Tôi không bao giờ thất vọng vì
tình. Các tình nhân đã mang lại cho tôi kinh nghiệm quý báu. Tôi không hối
tiếc về những gì đã làm, về những gì đã biết, và nếu phải làm lại thì tôi
cũng sẽ bắt đầu như vậy. Xin tạ ơn trời đã cho tôi cuộc đời cùng khả năng
sống này, bởi vì tôi đã sống trọn vẹn một trăm phần trăm và không có gì tiếc
rẻ".
Cho mãi đến giờ, trên mộ Piaf luôn luôn đầy hoa tươi của
khách thập phương, bởi Piaf đã đi vào huyền thoại và không thể bước ra. Bà
là đứa con cưng trong khi chết cũng như trong lúc sống. Cuộc đời bà có nhiều
đoạn hư hư thực thực bởi chính bà, với bản lĩnh mạnh mẽ bướng bỉnh cũng vô
tình tạo thêm huyền tạp bất thường. Đối với dân Pháp, Piaf không chết, chỉ
đi lưu diễn đâu đó ít lâu rồi lại trở về, lộng lẫy giàu có hơn vì thêm đàn
con cháu mới.
Người ta có thể thăm bà mỗi ngày tại bảo tàng Edith Piaf
(đường Crespin du Gast, quận 11 Paris) viện bảo tàng dành cho bà. Và tại
quảng trường Edith Piaf cách bịnh viện Tenon mấy thước, nơi La Môme
chào đời, ngày 11-10-2003 kỷ niệm 40 năm Piaf mất, thị trưởng Paris đã khánh
thành dựng bức tượng đứa con của đường sá.
Paris, Mars 2007
Bibliographie
RFI Musique
Wikipédia
Piaf-Cerdan, un hymne à l’amour: 1946-1949 / Patrick Mahé và Dominique
Grimault.- Robert Laffon , 2007.
*Non, je ne regrette
rien
Non! Rien de rien ...
Non ! Je ne regrette rien
Ni le bien qu'on m'a fait
Ni le mal tout ça m'est bien égal !
Non ! Rien de rien ...
Non ! Je ne regrette rien...
C'est payé, balayé, oublié
Je me fous du passé!
Avec mes souvenirs
J'ai allumé le feu
Mes chagrins, mes plaisirs
Je n'ai plus besoin d'eux !
Balayés les amours
Et tous leurs trémolos
Balayés pour toujours
Je repars à zéro ...
Non ! Rien de rien ...
Non ! Je ne regrette rien ...
Ni le bien, qu'on m'a fait
Ni le mal, tout ça m'est bien égal !
Non ! Rien de rien ...
Non ! Je ne regrette rien ...
Car ma vie, car mes joies
Aujourd'hui, ça commence avec toi !
Nguồn: Ăn mày văn chương